Đào tạo kĩ sư phần mềm SE tại đại học CMU
Đào tạo kĩ sư phần mềm SE theo nhu cầu công nghiệp tại
Đại học Carnegie Mellon (CMU)
Giáo dục phương Đông và giáo dục phương Tây
Giáo dục nói chung đều nhằm mục đích truyền thụ cho con người những tri thức và kinh nghiệm đã được xã hội tích luỹ để giúp cho con người sống và hành động trong hoàn cảnh thực tại. Tuy nhiên nhấn mạnh giáo dục vào những vấn đề nào và bằng phương pháp nào thì lại có nhiều điểm khác biệt giữa các vùng trên thế giới và giữa các thời đại.
Giáo dục phương Đông đã được hình thành từ rất lâu, nhưng mối quan tâm của nó là về văn chương, lịch sử, đạo đức và nhằm mục đích dạy người sống trong khuôn khổ xã hội phong kiến và để tham gia vào hệ thống quan lại. Nó dạy cho con người các nguyên tắc đạo đức xử thế dựa trên những ví dụ trong lịch sử, dùng quá khứ để hình thành khuôn mẫu tạo ra con người cho hiện tại và tương lai. Việc giáo dục này không nhằm trang bị tri thức làm việc, nghề nghiệp cụ thể cho người học.
Cũng có một hình thức giáo dục khác, bí truyền, chỉ phổ biến trong phạm vi hẹp của những người tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, tìm tới sống và học cùng thầy về chân lí tối thượng. Việc học tập này không phải là thông qua sách vở hay tri thức tường minh, mà là gạt bỏ mọi định kiến, tri thức vay mượn và tìm tới nhận biết riêng của chính mình. Hình thức giáo dục này rất có tác dụng cho người ta hiểu ý nghĩa và bản chất cuộc sống, tuy nhiên trong quá khứ nó rất ít có tác dụng trực tiếp cho sự phát triển xã hội vật chất. Điều cần lưu ý về hình thức giáo dục này là việc tự hoàn thiện, là việc thông qua sống và làm để thu được kinh nghiệm trực tiếp, chứ không phải là dựa vào tri thức gián tiếp của người khác truyền cho.
Giáo dục hàn lâm phương Tây ban đầu phát triển trên cơ sở khoa học và triết học để giải thích thế giới vật lí một cách khách quan không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người quan sát. Các trường phái hàn lâm được thành lập để dạy cho những người kế tục về các quan điểm khoa học của từng trường phái. Do đó trong một thời gian dài, các trường học phương Tây chủ yếu dành cho người lớn. Suốt thời Trung cổ, giáo dục phương Tây xoay quanh hệ thống nhà thờ.
Từ thế kỉ thứ 17, cùng với sự phát triển của thời đại công nghiệp, hệ thống giáo dục của xã hội đã được hình thành. Tư duy về tri thức, học tập và giảng dạy đã được thiết lập trong thế kỉ 19 và hình thành vào đầu thế kỉ 20 được đưa vào làm nội dung chính để truyền thụ tri thức trên qui mô toàn xã hội. Tư duy khoa học thế kỉ 17 được đặc trưng bởi phân tích, chấp nhận mô hình chia để trị để đi vào những thành phần nhỏ hơn. Tư duy này đã được áp dụng trong hệ thống giáo dục sâu tới mức thực tế cái nhìn về toàn thể đã bị mờ đi.
Hệ thống trường học cổ điển
Tư duy của thời đại công nghiệp xem xét hệ thống trường học như xưởng máy với dây chuyền sản xuất. Trường học dạy điều khoa học nói về cách thế giới vận hành, dạy về các nguyên lí khoa học đã được tổng kết, không đề cập tới các khía cạnh công nghệ và vận hành thực tế của các hệ thống hiện thời. Trường học hoạt động theo cách như nhà máy vận hành, mọi thứ đều được chia nhỏ thành các mảnh để xử lí. Trong nhà trường có giám thị, có hiệu trưởng, có giáo viên... là những người vận hành. Nếu từng người làm tốt việc của mình, nhà trường được coi là hoạt động tốt. Trường học do đó không nhấn mạnh vào quan hệ đối tác giữa những người trong và ngoài hệ thống giáo dục. Điều này hiện đang được sửa đổi với việc kêu gọi sự phối hợp giáo dục của nhà trường với xã hội, gia đình.
Trong cách quản lí theo chuyên môn hoá này, giáo viên là người quản lí hay người giám sát toàn bộ việc học tập của học sinh. Mảng việc của giáo viên là chỉ đạo việc học của học sinh. Nói rõ hơn, giáo viên đảm bảo học sinh phải biểu lộ được việc học của học sinh là khớp đúng với chương trình đã định sẵn của giáo viên. Nhiệm vụ của học sinh trong hệ thống chuyên môn hóa này, như mọi học sinh đều nhanh chóng hình dung ra, là làm mọi thứ có thể để nhận được sự chấp thuận của giáo viên. Quá trình đánh giá của thầy trở thành trung tâm trong trường học. Hơn nữa năng lực của học sinh được đo đơn thuần bằng điểm số của một vài kì thi chính, điều này làm cho cả quá trình học tập bị nhìn lệch, và tâm lí học thi trở thành phổ biến.
Trường học truyền thống bao giờ cũng được xem như một qui trình qua đó tri thức được truyền từ thầy qua trò. Trường học đơn giản đã từng là nơi việc truyền tri thức đó chính thức được tiến hành. Phần lớn các đại học ngày nay vẫn còn được tổ chức quanh ý tưởng này với giảng viên đọc bài giảng trước nhiều sinh viên nhằm tạo ra việc học tập cùng một mức, cùng một thời gian cho mọi sinh viên. Các chương trình đào tạo của các đại học này tập trung vào thân tri thức đặc thù – phần lớn vào lí thuyết mà mọi người phải biết, không tính tới việc áp dụng được hay không. Loại giáo dục này có thể dễ dàng được đo bằng việc cho sinh viên qua kì thi dựa theo trí nhớ về các khái niệm thay vì sử dụng tư duy giải quyết vấn đề thực. Cách dạy - học này hiện không đáp ứng được cho nhu cầu của xã hội– cần có công nhân tri thức có kĩ năng tham gia vào sản xuất ngay sau khi tốt nghiệp.
Những giả định trong giáo dục phương Tây
Giả định đầu tiên của khoa học thế kỉ 17 là thế giới được cấu tạo từ các mảnh vật chất cứng rắn và giữ nguyên vận tốc chuyển động trong không gian của nó nếu không có tác động từ bên ngoài. Cách nhìn thế giới theo khoa học hiện nay rất khác với cách nhìn thế giới theo quan điểm Newton của thế kỉ 17. Nó nói rằng bản chất nền tảng của thực tại là mối quan hệ chứ không phải vật chất cứng rắn. Tất cả mọi vật quanh ta, mà nền văn hoá cho ta biết là rắn và cứng thì có tới 99% là không gian rỗng! Cái chúng ta gọi là thân thể, thực tế, là quá trình. Nó liên tục thay thế bản thân nó. Giả định thứ nhất về mọi vật là cứng rắn và bất biến nay không được chấp nhận và người ta đã dần chuyển sang quan niệm về vật chất như năng lượng, như luồng biến chuyển không ngừng.
Giả định thứ nhất trong giáo dục là, theo quan niệm từ thế kỉ 17, giáo dục được cấu thành từ hoạt động của giáo viên với chức năng chỉ đạo và truyền thụ tri thức cho cả lớp học sinh. Học sinh là người không biết gì, nhưng là đối tượng tiếp thu tri thức do giáo viên rót vào. Giả định này hiện nay đã không được coi là đúng nữa, giáo dục nay được quan niệm là quá trình tự học tập của từng học sinh, có giáo viên là người giúp đỡ cho quá trình học tập đó phát triển.
Giả định thứ hai của quan niệm về giáo dục cổ điển là ở chỗ việc học xảy ra trong trí não, không qua việc sống và thực hành. Điều này khớp với quan niệm của khoa học phương Tây dựa trên logic và suy luận logic hình thức, cách làm việc của tâm trí con người. Mặt khác điều này cũng là hệ quả của việc phân đẳng cấp trong xã hội ngày xưa, tầng lớp quí tộc làm việc bằng trí não, tầng lớp bình dân làm việc bằng thân thể. Do đó theo giả định này, việc tổ chức học tập cho học sinh là tổ chức cách đưa tri thức vào đầu học sinh, cách truyền thụ tri thức, cách làm cho học sinh hiểu các khái niệm và nguyên tắc. Thực hành chỉ là phụ, với mục đích minh hoạ cho tri thức người khác đã tìm ra. Nhưng trong lịch sử, các nền văn hóa bản xứ đều nghĩ rằng tri thức của họ là ở trong hoạt động toàn thân thể, không trong đầu, và phải thông qua làm cụ thể mới biết được. Chúng ta có ý tưởng nào đó trong đầu mình về mọi thứ xung quanh, nhưng điều đó là khác với tri thức và kĩ năng thực tế. Tri thức và kĩ năng thực tế là khả năng của từng người thích ứng với hoàn cảnh và làm ra cái gì đó.
Giả định thứ ba của của thời đại công nghiệp về việc học là có trẻ khôn và trẻ ngu, so với trẻ thường. Điều đó đối lập với khái niệm rằng mọi trẻ em sinh ra đều mang năng khiếu duy nhất và sự vận hành lành mạnh của bất kì tập thể nào cũng đều được xác định bởi khả năng của nó trong phát triển các năng khiếu của các thành viên. Giả định rằng có trẻ khôn và trẻ ngu là sản phẩm phụ của thời đại máy móc cần nén sự đa dạng vô hạn của tự nhiên vào trong một tập nhỏ các phân loại đã định sẵn. Từ đó hình thành ra một số trường học chuyên vào một số lĩnh vực, tập trung đào tạo các nhân tài, những người thông minh trong một số lĩnh vực hẹp, trong khi đó không chú ý tới đa số những người khác, có thể rất có thiên hướng về các lĩnh vực khác. Sự phát triển của xã hội hiện đại đòi hỏi lực lượng lao động lớn có kĩ năng trong nhiều ngành sản xuất, bên cạnh một nhóm nhỏ những nhà nghiên cứu hàng đầu đi vào các nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy bên cạnh việc đào tạo một số nhà nghiên cứu, rất cần có đào tạo số đông các công nhân có tri thức và kĩ năng để đáp ứng cho đòi hỏi của nền kinh tế.
Một giả định quan trọng khác mà khoa học vẫn coi là căn bản, theo tư duy thế kỉ 17, là ở chỗ tri thức bị phân mảnh, để cho khoa học có thể đi vào góc nhỏ tìm hiểu tận tường. Điều này tự nhiên ảnh hưởng tới giáo dục với việc phân môn, phân ban, phân ngành, thiếu sự liên kết giữa các môn chuyên biệt. Học sinh càng lớn, việc học tập càng được giới hạn vào những lĩnh vực hẹp hơn. Kết quả hiện nay chúng ta có các đại học chuyên về khoa học, công nghệ, các đại học chuyên về xã hội nhân văn... Sinh viên tốt nghiệp về khoa học công nghệ chỉ biết sâu vào một khía cạnh tri thức tự nhiên mà thiếu tri thức về xã hội và con người, điều cần thiết trong các hoạt động sản xuất về sau. Nhiều chuyên gia chuyên ngành không hợp tác được với nhau vì thiếu tri thức làm việc theo tổ nhóm, theo qui trình. Sinh viên tốt nghiệp về xã hội và nhân văn thiếu tri thức về công nghệ nên khó tận dụng được các tiến bộ mới về phương pháp và công cụ công nghệ trong hoạt động của họ. Con người toàn diện dường như không được chuẩn bị chu đáo từ ngay trong đào tạo tại trường học.
Tất cả những giả định này cần được xem xét lại trong hoàn cảnh hiện nay để từ đó thấy được các đòi hỏi và nhu cầu mới trong việc giáo dục, đào tạo.
Đòi hỏi của xã hội và nền kinh tế
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách về lực lượng lao động tri thức trình độ cao cùng những phương pháp quản lí mới. Xu hướng tất yếu của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiệp vụ, kinh doanh đòi hỏi phải sử dụng được các nguồn tài nguyên trí tuệ ở nhiều nơi khác nhau. Do đó khoán ngoài các phần việc của tổ chức đang trở thành nhu cầu của nhiều công ti, cơ quan. Hơn nữa công nghệ thông tin đang trở thành nền tảng cho mọi hoạt động nghiệp vụ, đòi hỏi có lực lượng lao động trình độ cao hỗ trợ. Vì vậy kĩ sư phần mềm đang trở thành yêu cầu rất lớn để các tổ chức, công ti có thể sử dụng những năng lực và kĩ năng mới phục vụ nghiệp vụ. Bên cạnh đó, những người chuyên môn trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin cần được đào tạo để biết cách làm việc theo qui trình bài bản sản xuất ra sản phẩm công nghệ hỗ trợ cho các hoạt động nghiệp vụ và kinh doanh khác.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tạo ra đòi hỏi mới về tốc độ thay đổi nhanh chóng và mọi người đều cần thích ứng để cùng làm việc theo cách mới. Điều này đưa tới nhu cầu học tập thường xuyên và liên tục cho đội ngũ những người đang tham gia các hoạt động quản lí và sản xuất. Học cả đời trở thành nhiệm vụ bắt buộc của từng người, và trong từng tổ chức, việc tổ chức học tập cũng trở thành một chức năng chủ chốt, nơi sản xuất đồng thời trở thành nơi diễn ra các hình thức học tập, một hình thái mới của các trung tâm đào tạo trong lòng công nghiệp.
Vấn đề giáo dục bây giờ rõ ràng cần được xem xét trên góc độ toàn thể của cả đời người cũng như trong toàn xã hội chứ không chỉ giới hạn trong hệ thống giáo dục phổ thông và đại học. Khi mà học cả đời đã trở thành đặc điểm của con người thời nay, thì đào tạo huấn luyện cũng trở thành một trong những chức năng chính của mọi công ti, cơ quan, nếu tổ chức đó muốn phát triển lâu dài. Giáo dục trong các cơ quan và công ti cần nhấn mạnh không chỉ vào các tri thức kĩ năng chuyên sâu công nghệ, mà điều rất quan trọng là phát huy các tiềm năng và sáng tạo của mọi thành viên để họ có thể tham gia tích cực vào sản xuất, quản lí, lãnh đạo tổ chức. Đòi hỏi về những người lao động có tri thức và kĩ năng toàn diện cả về công nghệ lẫn xã hội, nhân văn là đòi hỏi thời sự hiện nay của hầu hết các công ti, cơ quan.
Đòi hỏi của khoa học của thế kỉ 20-21 là tư duy hệ thống, toàn thế, không phân mảnh, cục bộ. Người lao động hiện đại không những phải biết về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn phải biết cộng tác làm việc với nhiều người, phải biết tham gia vào quản lí và lãnh đạo. Các tri thức về mặt công nghệ, xã hội và nhân văn cần được trang bị cho sinh viên ngay từ đại học và được nâng cao trong quá trình làm việc. Con người toàn diện với hiểu biết cả về công nghệ, xã hội, nhân văn và có lí tưởng và hoài bão đem sáng tạo của mình đóng góp cho sự phát triển của công ti, của đất nước cần được hình thành và trở thành lí tưởng trong xã hội.
Một đòi hỏi lớn nữa của xã hội và nền kinh tế hiện nay, khi mà công nghệ thông tin và Internet đang trở thành môi trường làm việc mới, là phải có nhiều người lãnh đạo am hiểu các nghiệp vụ, kinh doanh được tiến hành trên nền công nghệ thông tin. Họ sẽ là những người tham gia vào việc tổ chức ra nền sản xuất hiện đại. Người tổ chức lao động hiện đại phải là con người toàn diện, có am hiểu cả về công nghệ lẫn các khía cạnh xã hội, con người, quản lí và lãnh đạo. Những người lãnh đạo như vậy sẽ phát triển thông qua hoạt động quản lí và sản xuất hàng ngày, kết hợp với việc học tập thường xuyên các phương pháp và cách thức quản lí lãnh đạo mới, trong môi trường tác nghiệp của công ti, cơ quan.
Những đòi hỏi này tạo ra các yêu cầu mới về thay đổi cách giảng dạy và cách học tập trong các trường đại học để cho đại học đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của công nghiệp.
Đại học Carnegie Mellon - CMU
Theo truyền thống, các đại học thường đào tạo ra những người làm nghiên cứu, quá trình học tập trong trường nhấn mạnh vào các mô hình lí thuyết của thực tế và khả năng suy luận của sinh viên. Những đòi hỏi của thế kỉ 21 đang đặt ngược lại một yêu cầu rất lớn đối với hệ thống đào tạo đại học truyền thống: bên cạnh việc có những trường đào tạo ra người nghiên cứu chuyên sâu, cần có các đại học khác đào tạo ra các kĩ sư với những kĩ năng đáp ứng được yêu cầu thực tế của các công ti.
Nhìn vào các trường đại học hàng đầu của Mĩ ta có thể thấy sự phân chia rõ nét giữa các hình thái đào tạo này. Các trường đại học danh tiếng của Mĩ như Havard, MIT, Stanford chú trọng đào tạo các nhà nghiên cứu hàng đầu, nhằm vào các vấn đề mũi nhọn của khoa học hiện đại. Các trường đại học như Carnegie Mellon,… lại rất coi trọng việc đào tạo ra các kĩ sư đáp ứng đúng yêu cầu của các ngành công nghiệp hiện đại, trong các lĩnh vực chế tạo và quản lí.
CMU - Đại học Carnegie Mellon là một trong những đại học hàng đầu ở Mĩ và là đại học được xếp hạng thứ nhất về kĩ nghệ phần mềm. CMU cộng tác rất chặt chẽ với công nghiệp và hiểu rằng với nhịp độ thay đổi công nghệ nhanh chóng và sức ép của cạnh tranh toàn cầu, nhiều công ti đang tự hỏi làm sao họ có thể kiếm được các công nhân có kĩ năng mà họ cần. Vì vậy CMU đi tiên phong trong việc thay đổi cách giảng dạy đại học và tập trung vào đào tạo các kĩ sư phần mềm đáp ứng ngay cho nhu cầu thực tế này.
Sinh viên CMU ra trường thường nhận được lời mời làm việc của 2 tới16 công ti. Riêng điều này đã chứng tỏ học sinh được đào tạo tại CMU thực sự có khả năng giải quyết các vấn đề thực tế, đáp ứng đúng nhu cầu của công nghiệp. Tỉ lệ thi vào trường CMU là 16:1.
Cách giảng dạy tại CMU khác nhiều so với các đại học khác, do quan niệm mới của trường về vấn đề đào tạo kĩ sư phần mềm đáp ứng nhu cầu công nghiệp.
Trong các đại học thông thường, sinh viên năm đầu học về các cơ sở toán học, cấu trúc dữ liệu, thuật toán rồi sau đó lên lập trình. Điều này làm cho sinh viên chỉ quen một mình ngồi với máy tính để lập trình. Sinh viên không được tiếp cận và không quen thuộc với các dự án lớn nhiều người làm, điều mà thực tế yêu cầu người kĩ sư phải tham gia.
Theo quan điểm của CMU, ngay từ đầu không nhất thiết nhấn mạnh vào các vấn đề căn bản của khoa học máy tính, mà trái lại, phải nhanh chóng đưa sinh viên vào toàn cảnh của thực tế rồi sau đó đi vào rèn luyện các kĩ năng thực hiện sâu về sau.
Đào tạo tại CMU về Kĩ nghệ phần mềm: "Học qua Hành"
Tại đại học Carnegie Mellon đã có nghiên cứu sâu để duyệt xét lại về giá trị của chương trình đào tạo đại học và trường đã đi tới thừa nhận nhu cầu của công nghiệp về các công nhân tri thức có kĩ năng. Trên cơ sở này trường nhận định cần thay đổi cách đào tạo để sinh viên biết cách làm việc trong ngành công nghiệp phần mềm ngay sau khi tốt nghiệp. Đó là lí do để trường thiết kế ra “Loạt kĩ nghệ phần mềm thực hành” như “lớp học ảo,” nơi sinh viên có thể truy nhập vào tài liệu đào tạo và bài giảng ở bất kì đâu trên thế giới.
Cách tiếp cận của trường đã được đặc biệt thiết kế để đáp ứng cho nhu cầu của sinh viên và công nghiệp toàn cầu dựa trên loạt các “kịch bản thực hành”, không dựa trên dạng thức bài giảng truyền thống vẫn được các trường đại học sử dụng. Các nghiên cứu của trường đã cho thấy rằng cách dạy hiệu quả nhất những kĩ năng mới là đưa sinh viên vào một loại dự án nào đó nơi họ có thể dùng những kĩ năng đó trên cơ sở đều đặn. Sinh viên được trao cho các công cụ cần thiết để nâng cao việc học tập của mình ngay lập tức và có khả năng áp dụng nó để giải quyết các vấn đề của thế giới thực.
Cách tiếp cận “Học qua Hành” là quá trình mà sinh viên học từ kinh nghiệm thay vì từ lí thuyết. Các kịch bản được thiết kế cho sinh viên làm việc thay vì nghe bài giảng lí thuyết. Lí do cho cách tiếp cận này có tác dụng tốt là ở chỗ nó gõ thẳng vào trung tâm của qui trình học tập căn bản mà con người vẫn dựa vào đó. Hành vi của con người được dựa trên kinh nghiệm nhiều hơn là là lí thuyết về quan niệm. Con người học cách làm mọi thứ và qua tham gia vào kinh nghiệm, học cả sai hay đúng. Con người học khi nào thì áp dụng những qui tắc nào đó và khi nào chúng phải được thay đổi. Con người học khi nào những qui tắc nào đó có thể được tổng quát hoá và khi nào chúng là ngoại lệ. Con người học tất cả những điều này bằng việc làm thực tế, bằng việc thường xuyên có kinh nghiệm mới và cố gắng tích hợp những kinh nghiệm đó và cấu trúc kí ức hiện có của mình.
Tất cả các lớp học đều bắt đầu bằng “bài giảng trên video” cung cấp một tóm tắt về tài liệu sinh viên cần biết, phục vụ chỉ như một nguồn hướng dẫn. Sinh viên đi theo bài giảng với nhiệm vụ đọc thêm và tham gia vào thảo luận trong lớp dưới sự hướng dẫn của hướng dẫn viên. Họ học thảo luận và giải quyết vấn đề dựa trên tập các kịch bản được tổ hợp với các bài kiểm tra cá nhân và công việc tổ, nơi việc họ thực sự xảy ra. Để đảm bảo sinh viên hiểu các khái niệm, có bài đọc hàng tuần, bài kiểm tra và nhiệm vụ được phân công. Sinh viên được khuyến khích làm việc theo tổ để giải quyết vấn đề và chuyển giao vật phẩm dựa trên các vấn đề tương tự như vấn đề họ sẽ gặp trong thực tế. Cách tiếp cận này là một kĩ thuật hiệu quả, vì khi sinh viên làm việc qua nhiệm vụ được phân công họ học các kĩ năng chủ chốt cần cho việc hoàn thành thành công nhiệm vụ của họ.
Sinh viên phải tự xem video bài giảng trước một hai lần, có slide và tiếng nói, tập nghe tiếng Anh cho quen. Năm thứ nhất và thứ hai khi vào lớp giáo viên có thể dùng bản ngữ để giải thích. Nhưng vào năm thứ 3 trở đi phải học hoàn toàn bằng tiếng Anh.
Ba đặc điểm chính của giảng dạy tại CMU là
1. Giáo viên không phải là người truyền thụ tri thức mà là người hướng dẫn học tập.
2. Giáo viên không trực tiếp giảng dạy cho sinh viên, không trả lời câu hỏi của sinh viên khi sinh viên chưa tự đọc bài.
3. Giáo viên nêu vấn đề để sinh viên giải quyết. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn.
Các bài học được thực hiện hàng tuần trong ba phiên liên tiếp.
Phiên thứ nhất là làm bài kiểm tra, sau đó chữa luôn bài kiểm tra trên lớp với giả định sinh viên đã tự đọc trước về nội dung tri thức của bài.
Phiên học thứ hai được tiến hành dựa trên nhận định về khả năng làm bài kiểm tra của sinh viên. Giáo viên xác định những điểm nút về tri thức và kĩ năng mà sinh viên còn thiếu, chưa thể hiện được qua bài kiểm tra. Từ đó giáo viên giảng giải kĩ hơn về những điểm sinh viên có thể chưa hiểu rõ hay những điểm quan trọng nhất cần nắm.
Sau đó, vào phiên học thứ ba giáo viên đưa ra các chủ đề để cho sinh viên có thể thảo luận và làm việc tại các tổ, tổ chức cho các tổ thuyết trình các giải pháp mình tìm ra.
Sau khi học khoảng 5-6 tuần sẽ có một kì thi giữa kì, dựa trên các câu hỏi của bài đã học để khắc hoạ lại những điều đã học. Cuối khoá học có kì thi tổng kết, dựa trên quãng 50 câu hỏi mà sinh viên còn chưa làm được.
Việc kiểm tra và thi được tiến hành thường xuyên hàng tuần dựa trên giải quyết vấn đề. Bài thi không nhất thiết phải ăn nhập với điều có trong sách mà là vấn đề thực tế được nêu ra.
Quan điểm thiết kế chương trình đào tạo của CMU
Từ thay đổi quan niệm căn bản về giảng dạy của giáo viên để chuyển sang nhấn mạnh vào quá trình học tập của sinh viên, cách tổ chức học tập trong suốt 4 năm tại trường cũng có những thay đổi căn bản so với cách tổ chức học tập truyền thống.
Chương trình đào tạo của CMU được thiết kế để thực hiện việc học qua hành đúng đắn, tích hợp tất cả các khía cạnh của nhiệm vụ thế giới thực, đối lập với việc dạy kĩ năng một cách độc lập dựa trên lí thuyết không có ngữ cảnh.
Năm thứ nhất giới thiệu tổng quan: học cái gì
Năm thứ nhất là “năm chuyển tiếp” nơi sinh viên dự bài giảng, làm bài tập về nhà, với các bài kiểm tra hàng tuần dựa trên phương pháp truyền thống “ghi nhớ” và “học thuộc lòng.” Nhưng có thêm việc thảo luận trên lớp và công việc tổ hội tụ vào trình bày để làm cho sinh viên quen thuộc với cách tiếp cận "Học qua Hành".
Tất cả chương trình học tập trong 4 năm đều được giới thiệu ngay cho sinh viên năm thứ nhất. Nhấn mạnh chủ yếu là khuyến khích và động viên sinh viên theo học cách học mới, biết rộng trước và sau đó biết cách thực hiện trong thực tế.
Việc đọc sách báo hiện thời và các bài tạp chí được nhấn mạnh là để mở rộng kĩ năng của sinh viên chứ không đi theo cách tiếp cận “sách giáo khoa” cổ điển nơi hướng dẫn duy nhất cho sinh viên là tài liệu do tác giả của cuốn sách giáo khoa đó soạn ra. Ngay trong năm thứ nhất, sinh viên đã bắt đầu làm việc trong tổ và cộng tác lẫn nhau để làm việc.
Năm thứ hai : học cách làm
Việc học tập của sinh viên từ năm thứ hai chuyển từ bề rộng sang bề sâu, đi vào cách thức thực hiện, thường là những cách thức do người khác đã tìm ra.
Trong năm thứ hai và trong toàn khoá, sinh viên sẽ được đặt vào trong một loại tình huống mà họ cần dùng điều họ đã học để giải quyết vấn đề. Sinh viên đi tới hiểu ra khi nào, tại sao, và làm thế nào họ phải dùng những kĩ năng này theo việc. Họ học bằng việc thực tế làm các nhiệm vụ “đúng thời gian.” Điều này nghĩa là họ thực sự học khi họ muốn biết thông tin, khi thông tin trở thành có nghĩa nhất cho họ, và theo cách đó họ sẽ rất có thể ghi nhớ thông tin này về sau khi họ cần tới nó trong nghề nghiệp của mình.
Năm thứ ba : học cách tự làm
Sinh viên được học tập bằng cách tự mình tiến hành cách thức thực hiện những tình huống mô phỏng thực tế. Những bài học tình huống hoàn toàn kĩ thuật được nêu ra để sinh viên xử lí. Chẳng hạn khi kĩ thuật thay đổi, dự án sinh viên đang thực hiện phải bị thay đổi, khi hoàn cảnh thay đổi thì người thực hiện dự án phải chủ động thay đổi.
Sinh viên làm việc trong các tổ, được trao cho các thông tin chi tiết về công ti được mô phỏng mà họ làm việc cho, cùng với các dự án chi tiết và đích thực, thông qua các câu chuyện và tình huống. Có sẵn sự hỗ trợ về tài liệu và tài nguyên, và có giáo viên trợ giúp để trả lời các câu hỏi và hướng dẫn sinh viên theo đúng hướng khi cần. Hiệu quả của cách tiếp cận này là ở chỗ sinh viên làm việc thông qua các chuyện kể để đạt tới mục đích mà câu chuyện tạo ra, học các kĩ năng chủ chốt cần cho việc hoàn thành thành công nhiệm vụ của họ trong cuộc sống thực.
Năm thứ tư: học trong ứng dụng thực
Năm thứ tư học theo việc áp dụng vào các dự án thực tế liên quan tới yêu cầu hiện tại của công nghiệp. Sinh viên sẽ tham gia vào các dự án thực, thường gọi là capstone, mỗi capstone kéo dài trong 6 tháng.
Phương pháp giảng dạy Học qua Hành được tiến hành bằng việc chia lớp thành các tổ dự án làm việc cho các công ti. Các tổ phải tự động xây dựng dự án xem như bài tập. Mọi thay đổi, mọi biến động của dự án đều là thực và tổ dự án phải thích ứng được với các hoàn cảnh thực tế đó. Học sinh vừa học vừa làm theo sự phức tạp của thực tế.
Triển khai cách đào tạo của CMU trên thế giới
Xu hướng đào tạo các kĩ sư thực hành tại đại học Carnegie Mellon đã được ngành công nghiệp Mĩ chấp nhận và trường CMU được thừa nhận là một trong những trường đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới này. Không những thế, cách đào tạo này đang được triển khai trên qui mô toàn thế giới. Cho tới nay, các nước đã triển khai chương trình đào tạo kĩ sư phần mềm của CMU bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các tiểu vương quốc Arab và Việt Nam.
Với thời gian, chúng ta có thể được chứng kiến rõ ràng hơn về những thay đổi căn bản trong quan niệm giáo dục sẽ đưa tới những đổi mới thực tế nào về cách giảng dạy đại học cho sát với nhu cầu của xã hội và nền kinh tế.
Viết lại theo
1. John Vu, Our Approach for the “Practical Software Engineering Series”, Carnegie Mellon University , Institute for Software Research
2. John Vu, bài giảng cho lớp tập huấn giáo viên Việt Nam tại CMU, 7-2008
3. Lynn Robert Carter, Delivery of Customized Software Engineering Knowledge and Skill, Carnegie Mellon University
4. Peter M. Senge, Systems Change in Education, Reflections: The Journal on Knowledge, Learning and Change; MIT Press; Winter 1999; Vol. 1 Number 3; pages 52-58
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: