Tái cơ cấu Ngân hàng là một thực tiễn khách quan. Các quốc gia đi trước đều trải qua hoạt động này. Những bài học của họ là đáng để chúng ta suy ngẫm và vận dụng
Giải pháp “nóng” cứu ngân hàng
Chính phủ Nhật Bản, cùng với kế hoạch rót 13 nghìn tỷ yên tiền mặt, còn đề nghị khoản hỗ trợ trị giá 50 nghìn tỷ yên dưới hình thức trái phiếu và các phiếu bảo đảm của chính phủ vào tháng 2/1998; trong đó, dành riêng 13 nghìn tỷ yên để hỗ trợ vốn cho các ngân hàng và khu vực tài chính và 17 nghìn tỷ yên để bảo vệ người gửi tiền
Bộ Tài chính Nhật Bản cũng quyết định nới lỏng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro của thương phiếu do ngân hàng nắm giữ, nhằm giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS).
Ngân Hàng Trung Uơng hạ lãi suất tái chiết khấu từ 0,5% xuống còn 0,25%, mức thấp nhất kể từ trước tới nay nhằm giảm bớt gánh nặng cho các Ngân Hàng Thương Mại.
Ban hành hàng loạt văn bản luật liên quan
Cuối tháng 9/1998, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống ngân hàng nhằm giải quyết khoản nợ khổng lồ. Nội dung cơ bản của luật này gồm: Lập một ủy ban khôi phục tài chính; Các ngân hàng thua lỗ bị phá sản theo Luật Phá sản và đặt dưới sự quản lý của Nhà nước theo 2 cách, hoặc là Chính phủ mua cổ phiếu của các ngân hàng bị phá sản, hoặc chuyển thành các ngân hàng cầu nối cho đến khi khu vực tư nhân mua lại; Cho phép ngân hàng Nhật mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hóa…
Ngày 12/10/1998, 8 dự án luật liên quan tới các ngân hàng bị phá sản đã được Quốc hội Nhật Bản phê chuẩn. Theo đó, Chính phủ có thể bơm tiền vào một số ngân hàng với một số điều kiện nhất định: Nếu ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sử hữu trên tổng tài sản cao hơn 4% thì Chính phủ có thể mua cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng nhưng giám đốc của ngân hàng sẽ buộc phải từ chức, ngân hàng phải giảm số chi nhánh và phải đóng cửa chi nhánh ở nước ngoài. Nếu tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm thời bị quốc hữu hóa, sau đó phải ngừng hoạt động, sáp nhập với ngân hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động.
Chia nhóm ngân hàng để tái cấu trúc
Chính phủ Nhật Bản bắt đầu phân chia các ngân hàng nước này thành 2 nhóm:
nhóm thứ nhất là các ngân hàng cho vay lành mạnh, sắp giải quyết dứt điểm các khoản nợ khó đòi;
nhóm thứ hai là các ngân hàng đang phải vật lộn với nợ xấu.
Nhóm thứ nhất là nơi tập trung những ngân hàng khổng lồ, khỏe mạnh nhất như Bank of Tokyo Mitshubishi Ltd., Sumitomo Bank Ltd.,… là điểm tựa cho quá trình phục hồi của toàn bộ hệ thống này. Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng thành lập các liên minh. Đây cũng là một hướng đi khả thi về lâu dài.
Các chính sách để cứu trợ cho hệ thống ngân hàng Nhật Bản trong năm tài chính 1998 đã được ban hành liên tục, cho thấy Chính phủ Nhật Bản đã thừa nhận sự yếu kém và quyết tâm của Chính phủ trong tiến trình cải cách hệ thống tài chính nước này.
Bài học cho Việt Nam
Một là, cần sớm phát hiện và cho đóng cửa các tổ chức tín dụng, ngân hàng “có vấn đề” về tài chính, nhất là khối ngân hàng cổ phần; xúc tiến cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém; kiểm soát chặt chẽ hơn và ngăn chặn tình trạng cho vay, thanh toán đối ngoại tràn lan, giảm bớt các bảo lãnh dễ dãi của NHNN dành cho các ngân hàng yếu kém để ngăn chặn những tổn thất tài chính to lớn có thể xảy ra.
Hai là, tổng kết, nghiên cứu, áp dụng các loại hình ngân hàng, công ty tài chính mới, bao gồm tổ chức dạng quỹ hoặc công ty đảm trách việc xử lý tài sản thế chấp, mua bán nợ để thu hồi vốn cho ngân hàng. Đặc biệt, với hệ thống NHTM cổ phần hiện nay, hoạt động còn chưa có kinh nghiệm, hiệu quả thấp, cần chấn chỉnh bằng cách mua lại, sáp nhập, liên kết để hình thành những ngân hàng mạnh hơn.
Ba là, tăng cường sức mạnh hoạt động cho các NHTM, trước tiên, cần tăng vốn điều lệ, vốn tự có và năng lực quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng, nhằm tăng khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của ngân hàng trước những biến động của thị trường. Nâng cao chất lượng tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, đảm bảo số lượng ngân hàng ít nhưng an tòan và hiệu quả hơn.
Bốn là, nhanh chóng cụ thể hóa chính sách, cơ chế, thể lệ, quy chế để phát triển hệ thống các NHTM đủ tiêu chuẩn kinh doanh đa năng, thích ứng với cơ chế thị trường mới. Phân định rạch ròi giữa nhiệm vụ chính sách và kinh doanh, có sự thể hiện rõ vai trò trung gian tài chính và không ngừng nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ tài chính, tín dụng cho nền kinh tế.
Trên quá trình thực hiện tái cơ cấu NHTM, những kinh nghiệm, giải pháp từ Nhật Bản, luôn là những bài học quý giá để chung ta thường xuyên xem xét lại tiến trình và kết quả thực hiện để tìm ra những phương pháp xử lý một cách khéo léo, linh hoạt, thận trọng nhưng cũng khẩn trương, kiên quyết.TDU