Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs-Special drawing rights)
Các nước tham gia vào hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods cần những nguồn dự trữ chính thức (Chính phủ và NHTW thường nắm giữ vàng và những ngoại tệ được chấp nhận rộng rãi) để mua đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nước ngoài nhằm duy trì tỷ giá của quốc gia. Tuy nhiên, nguồn cung quốc tế của hai tài sản dự trữ chủ yếu là vàng và đôla Mỹ lại không tương xứng với sự mở rộng của thương mại thế giới và sự phát triển tài chính đang diễn ra. Vì vậy, cộng đồng thế giới quyết định tạo ra một loại tài sản dự trữ quốc tế mới dưới sự bảo hộ của IMF - Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs – Special Drawing Rights). SDRs ra đời năm 1969 nhằm giảm bớt áp lực đối với đồng Đôla. Nó là rổ tiền tệ của các đồng tiền mạnh được phân bố cho các thành viên của IMF. Các nước có thể dùng SDRs để thanh toán quốc tế như vàng và ngoại hối.Có thể coi SDR như là một đồng tiền "danh nghĩa" vì nó không có hình dạng vật chất cụ thể, được IMF tạo ra và tồn tại dưới dạng các khoản mục kế toán đặc biệt do quỹ quản lý.
Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) không chỉ là tiền dự trữ mà còn là loại tiền định giá trong giao dịch quốc tế. Giá trị của nó ổn định hơn so với đồng tiền thành phần. SDRs trở thành loại tiền định giá hấp dẫn trong các hợp đồng tài chính và thương mại quốc tế trong môi trường bất ổn định của tỷ giá hối đoái.
Lúc đầu SDRs được phát thảo như là con số bình quân được điều chỉnh của 16 loại tiền tệ của những nước có lượng xuất khẩu vượt hơn 1% của toàn thế giới. Số phần trăm đóng góp của mỗi loại tiền tệ vào SDRs tương đương phần chiếm giữ của nước đó trong lĩnh vực xuất khẩu. Đến năm 1981, SDRs được đơn giản hóa thành phần của nó chỉ gồm 5 đồng tiền mạnh nhất là Đôla Mỹ, Mác Đức, Yên Nhật, Bảng Anh và Franc Pháp. Tỷ trọng mỗi đơn vị tiền trên được cập nhật theo định kỳ phản ánh tầm quan trọng tương đối của mỗi quốc gia trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Cụ thể như sau:
* Từ 1969 đến tháng 6 năm 1974, SDRs được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị so với vàng:
* Từ 1969 đến ngày 17 tháng 12 năm 1971:
* Từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến ngày 11 tháng 2 năm 1973:
* Từ ngày 12 tháng 2 năm 1973 đến ngày 30 tháng 6 năm 1974:
* Năm 1973, chế độ tỷ giá hối đoái cố định sụp đổ nên từ tháng 7 năm 1974 đến nay, SDRs được định nghĩa theo các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài chính quốc tế:
- Từ tháng 7 năm 1974 đến ngày 31 tháng 12 năm 1980: rổ tiền tệ bao gồm 16 loại tiền mà mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế. Trong giai đoạn đầu (đến hết tháng 6 năm 1978, tỷ trọng này dựa trên số liệu thống kê từ năm 1968 đến 1972, giai đoạn còn lại dựa trên số liệu thống kê từ năm 1972 đến 1976.
- Từ năm 1981 đến 1999: các loại tiền tệ trong rổ là Đôla Mỹ, Yên Nhật, Bảng Anh và Franc Pháp, mark Đức.
- Từ 1999 cho đến nay: rổ tiền tệ gồm Euro, Bảng Anh, yên Nhật, đôla Mỹ.
Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDRs được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại và tài chính quốc tế. Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDRs và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo của IMF thực hiện sau mỗi 5 năm. Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là:
Loại tiền |
1981 - 1985 |
1986 - 1990 |
1991 - 2000 |
Đôla Mỹ |
42% |
42% |
40% |
Mác Đức |
19% |
19% |
21% |
Yên Nhật |
13% |
15% |
17% |
Bảng Anh |
13% |
12% |
11% |
France Pháp |
13% |
12% |
11% |
Loại tiền |
2001 - 2005 |
2005 - 2010 |
Đôla Mỹ |
45% |
44% |
Euro |
29% |
34% |
Yên Nhật |
15% |
11% |
Bảng Anh |
11% |
11% |
Thành phần của quyền rút vốn đặc biệt thay đổi 5 năm 1 lần nhưng từ năm 1996 thay đổi rất nhỏ.
Tỷ giá hối đoái mà IMF sử dụng để tính toán và công bố giá trị của SDR hàng ngày là tỷ giá trên thị trường ngoại hối London, nếu thị trường này đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường ngoại hối New York, cuối cùng là tỷ giá trên thị trường ngoại hối Frankfurt sẽ được sử dụng nếu thị trường New York cũng đóng cửa.Các nước tham gia vào hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods cần những nguồn dự trữ chính thức (Chính phủ và NHTW thường nắm giữ vàng và những ngoại tệ được chấp nhận rộng rãi) để mua đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nước ngoài nhằm duy trì tỷ giá của quốc gia. Tuy nhiên, nguồn cung quốc tế của hai tài sản dự trữ chủ yếu là vàng và đôla Mỹ lại không tương xứng với sự mở rộng của thương mại thế giới và sự phát triển tài chính đang diễn ra. Vì vậy, cộng đồng thế giới quyết định tạo ra một loại tài sản dự trữ quốc tế mới dưới sự bảo hộ của IMF - Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs – Special Drawing Rights). SDRs ra đời năm 1969 nhằm giảm bớt áp lực đối với đồng Đôla. Nó là rổ tiền tệ của các đồng tiền mạnh được phân bố cho các thành viên của IMF. Các nước có thể dùng SDRs để thanh toán quốc tế như vàng và ngoại hối.Có thể coi SDR như là một đồng tiền "danh nghĩa" vì nó không có hình dạng vật chất cụ thể, được IMF tạo ra và tồn tại dưới dạng các khoản mục kế toán đặc biệt do quỹ quản lý.
Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) không chỉ là tiền dự trữ mà còn là loại tiền định giá trong giao dịch quốc tế. Giá trị của nó ổn định hơn so với đồng tiền thành phần. SDRs trở thành loại tiền định giá hấp dẫn trong các hợp đồng tài chính và thương mại quốc tế trong môi trường bất ổn định của tỷ giá hối đoái.
Lúc đầu SDRs được phát thảo như là con số bình quân được điều chỉnh của 16 loại tiền tệ của những nước có lượng xuất khẩu vượt hơn 1% của toàn thế giới. Số phần trăm đóng góp của mỗi loại tiền tệ vào SDRs tương đương phần chiếm giữ của nước đó trong lĩnh vực xuất khẩu. Đến năm 1981, SDRs được đơn giản hóa thành phần của nó chỉ gồm 5 đồng tiền mạnh nhất là Đôla Mỹ, Mác Đức, Yên Nhật, Bảng Anh và Franc Pháp. Tỷ trọng mỗi đơn vị tiền trên được cập nhật theo định kỳ phản ánh tầm quan trọng tương đối của mỗi quốc gia trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Cụ thể như sau:
· Từ 1969 đến tháng 6 năm 1974, SDRs được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị so với vàng:
· Từ 1969 đến ngày 17 tháng 12 năm 1971: 35 USD = 1 ounce vàng.
· Từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến ngày 11 tháng 2 năm 1973:
· Từ ngày 12 tháng 2 năm 1973 đến ngày 30 tháng 6 năm 1974:
* Năm 1973, chế độ tỷ giá hối đoái cố định sụp đổ nên từ tháng 7 năm 1974 đến nay, SDRs được định nghĩa theo các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài chính quốc tế:
· Từ tháng 7 năm 1974 đến ngày 31 tháng 12 năm 1980: rổ tiền tệ bao gồm 16 loại tiền mà mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế. Trong giai đoạn đầu (đến hết tháng 6 năm 1978, tỷ trọng này dựa trên số liệu thống kê từ năm 1968 đến 1972, giai đoạn còn lại dựa trên số liệu thống kê từ năm 1972 đến 1976.
· Từ năm 1981 đến 1999: các loại tiền tệ trong rổ là Đôla Mỹ, Yên Nhật, Bảng Anh và Franc Pháp, mark Đức.
· Từ 1999 cho đến nay: rổ tiền tệ gồm Euro, Bảng Anh, yên Nhật, đôla Mỹ.
Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDRs được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại và tài chính quốc tế. Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDRs và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo của IMF thực hiện sau mỗi 5 năm. Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là:
Loại tiền |
1981 - 1985 |
1986 - 1990 |
1991 - 2000 |
Đôla Mỹ |
42% |
42% |
40% |
Mác Đức |
19% |
19% |
21% |
Yên Nhật |
13% |
15% |
17% |
Bảng Anh |
13% |
12% |
11% |
France Pháp |
13% |
12% |
11% |
Loại tiền |
2001 - 2005 |
2005 - 2010 |
Đôla Mỹ |
45% |
44% |
Euro |
29% |
34% |
Yên Nhật |
15% |
11% |
Bảng Anh |
11% |
11% |
Thành phần của quyền rút vốn đặc biệt thay đổi 5 năm 1 lần nhưng từ năm 1996 thay đổi rất nhỏ.
Tỷ giá hối đoái mà IMF sử dụng để tính toán và công bố giá trị của SDR hàng ngày là tỷ giá trên thị trường ngoại hối London, nếu thị trường này đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường ngoại hối New York, cuối cùng là tỷ giá trên thị trường ngoại hối Frankfurt sẽ được sử dụng nếu thị trường New York cũng đóng cửa.
Lưu Thu Hương
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: