Thẩm định dự án đầu tư (Phần 1)
Dự án đầu tư (DAĐT) là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt sự tăng trưởng khối lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. DAĐT mới chỉ là những đề xuất trong tương lai chưa phải đã được thực hiện trong thực tế. Nhiệm vụ chủ yếu của DAĐT là đưa ra các đề xuất đúng, phù hợp luật pháp, có hiệu quả cao.
Theo tiêu chí này có 3 loại DAĐT như sau:
- Dự án tiền khả thi: Đây thực chất là một dự án sơ bộ được sử dụng chủ yếu là để đánh giá lựa chọn sơ bộ các cơ hội đầu tư. Thông thường người ta sử dụng trong các DAĐT có quy mô lớn.
- Dự án khả thi (còn gọi là luận chứng kinh tế kỹ thuật): Đây là loại dự án chi tiết dùng để đánh giá dự án nhằm đi đến quyết định cấp phép đầu tư hoặc là quyết định đầu tư.
- Báo cáo kinh tế kỹ thuật: Đây là dạng rút gọn của luận chứng kinh tế-kỹ thuật dùng để nghiên cứu ra quyết định đầu tư cho các dự án có quy mô nhỏ.
Theo cách này có 3 loại:
- DAĐT độc lập lẫn nhau: những DAĐT độc lập có đặc điểm là khi được chấp thuận hay từ chối đều không ảnh hưởng đến dòng ngân lưu của dự án khác thì được coi là độc lập về kinh tế thì việc đánh giá và chấp nhận hay từ chối một dự án sẽ không chịu ảnh hưởng bởi quyêt định dự án kia. Sự độc lập này không có nghĩa là giữa các DAĐT tuyệt đối không có mối liên hệ nào mà giữa các dự án còn tồn tại mối tương quan trên nhiều phương diện. Như giữa 2 DAĐT độc lập cùng chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế, sự tăng hay giảm giá trị dòng lưu ngân trên phương diện thời giá.
- DAĐT loại trừ nhau (xung khắc nhau): Là dự án mà khi một dự án được chấp thuận sẽ làm triệt tiêu hoàn toàn những lợi nhuận tiền tàng thu được từ một dự án khác. Nếu một trong hai (hay nhiều) dự án được chấp thuận thì những dự án còn lại sẽ bị loại bỏ.
- DAĐT phụ thuộc: dự án có dòng lưu ngân chịu sự tác động của một quyết định chấp thuận hay từ chối của DAĐT khác. Dự án phụ thuộc được coi là dự án lệ thuộc vè mặt kinh tế đối với dự án thứ hai: Trong thực tế loại dự án này lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế, tức là một dự án chịu sự lệ thuộc vào một hay nhiều dự án và ngược lại nó cũng có ảnh hưởng nhất định đối với những dự án mà nó lệ thuộc.
Trên góc độ này người ta chia dự án thành :
- Nhóm các dự án từ nguồn vốn ngân sách nhà nước: Các dự án này ngoài việc chịu sự điều tiết chung của các văn bản, luật vè quản lý kinh tế chung thì còn phải chịu sự điều tiết bởi các văn bản quy định riêng khác.
- Nhóm các DAĐT từ các nguồn vốn khác: Đối với các dự án này, hoạt động đầu tư được điều tiết bởi các bộ luật như: Luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài,…
Theo nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ Việt Nam thì tùy tính chấp dự án và quy mô đầu tư, DAĐT trong nước được phân loại thành 3 nhóm: A, B, C để phân cấp quản lý.
- DAĐT mở rộng thiết bị.
- DAĐT mới để sản xuất kinh doanh những sản phẩm đã có trên thị trường.
- DAĐT mới để sản xuất kinh doanh những sản phẩm chưa có trên thị trường trong nước nhưng phổ biến ở nước ngoài.
- DAĐT mới để sản xuất những sản phẩm chưa có trên thị trường trong nước nhưng mang đặc thù Việt Nam.
- DAĐT địa ốc, dự án BOT hạ tầng.
- DAĐT đầu tư thương mại-dịch vụ.
- DAĐT công nghiệp truyền thống.
- DAĐT công nghệ mới.
Chutrình DAĐT là các giai đoạn mà một dự án thường phải trải qua từ khi dự án còn là một ý đồ cho đến khi dự án chấm dứt hoạt động. Có nhiều cách phân chia các giai đoạn trong một DAĐT và đây là một trong những cách phân chia phổ biến nhất:
Giai đoạn 1: Nghiên cứu cơ hội đầu tư.
Nghiên cứu cơ hội đầu tư là bước phân tích tiếp tục một cách tổng quát các ý tưởng kinh doanh nảy sinh để xem có nên tiếp tục phát huy ý tưởng đó hay không, có nên triển khai sâu rộng vấn đề đó hay không.
Giai đoạn 2 : Nghiên cứu tiền khả thi.
Đây là giai đoạn nghiên cứu chi tiết, đầy đủ hơn một số khía cạnh quan trọng, cần thiết mà trong nghiên cứu cơ hội đầu tư còn cảm thấy phân vân, chưa chắc chắn để khẳng định có nên tiếp tục nghiên cứu giai đoạn tiếp theo hay không.trong giai đoạn này còn một số nộidung chưa được nghiên cứu, phân tích một cách chi tiết như giai đoạn khả thi vì chưa thật cần thiết và cũng để tiết kiệm chi phí. Đối với các cơ hội đầu tư có qui mô nhỏ, đơn giản ít phức tạp, ít rủi ro, triển vọng đầu tư khá rõ ràng thì có thể bỏ qua giai đoạn này.
Giai đoạn 3: Nghiên cứu khả thi.
Đây là giai đoạn xem xét một cách chi tiết chính xác đầy đủ các mặt khác nhau của dự án nhằm làm rõ các chi phí, lợi ích và tính khả thi của dự án.
Ba giai đoạn trên thuộc thời kỳ chuẩn bị của dự án
Giai đoạn 4: Xây dựng dự án
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi thực tế triển khai xây dựng dự án cho đến khi dự án được nghiệm thu đưa vào sử dụng.
Giai đoạn 5: Vận hành dự án
Đây là giai đoạn dự án được đưa vào vận hành, sử dụng nhằm thực hiện các mục tiêu của dự án. Khoảng thời gian từ khi bắt đầu vận hành cho đến khi kết thục hoạt động được coi là vòng đời của dự án. Hai giai đoạn xây dựng vận hành dự án được gọi chung là thời kỳ thực hiện dự án.
Giai đoạn 6: Đánh giá dự án
Đánh giá các mục tiêu của dự án trong quá trình thực hiện so với hồ sơ dự án đã được thực hiện như thế nào, qua đó rút ra những kinh nghiệm cho những dự án sau.
Giai đoạn 7: Thanh lý, phát triển dự án mới
Việc triển khai nghiên cứu dự án mới thường đi đôi với việc thanh lý dự án cũ nhằm bảo quản quá trình đầu tư, kinh doanh được liên tục và có hiệu quả. Hai giai đoạn cuối cùng này thuộc về thời kỳ kết thúc dự án.
Các giai đoạn của dự án có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu giai đoạn chuẩn bị đầu tư được làm tốt thì giai đoạn thực hiện đầu tư sẽ đảm bảo đúng tiến độ với chất lượng tốt, dự án đưa vào vận hành sẽ đem lại hiệu quả cao và ngược lại. Chính vì vậy, giai đoạn chuẩn bị đầu tư trong đó then chốt là thẩm định DAĐT có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại của dự án.
Lưu Thu Hương
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: