CÂU CHUYỆN VỀ TẤM HỘ CHIẾU MALTA
Cuối tháng 9/2014, chương trình Bản tin tài chính của Đài truyền hình Việt Nam giới thiệu một phóng sự về việc chính phủ Malta bán hộ chiếu của quốc gia này cho những người nước ngoài có nhu cầu nhập tịch vào Malta. Cụ thể, người dân thuộc các quốc gia không phải thành viên của Liên minh châu Âu có thể có được quốc tịch Malta nếu chấp nhận bỏ vốn đầu tư 1.15 triệu euro hay 1.57 triệu đô la Mĩ (gần 35 tỉ đồng) vào đảo quốc Địa Trung Hải nhỏ bé này.
Chính sách này tỏ ra rất hấp dẫn đối với người nước ngoài bởi vì Malta là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu. Trở thành công dân của Malta thì cũng đồng nghĩa với việc trở thành công dân của Liên minh châu Âu mới. Nói cách khác, cách làm của chính phủ Malta tạo ra một lối đi hợp pháp cho những người giàu có từ các quốc gia ngoài Liên minh châu Âu có nhu cầu được thụ hưởng những phúc lợi xã hội của Liên minh châu Âu chỉ từ việc trở thành công dân một nước nhỏ bé như Malta.
Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, Ủy ban châu Âu (European Commission) đã tạo sức ép để chính phủ Malta phải thay đổi chính sách “đặc biệt” này. Theo đó, Ủy ban châu Âu yêu cầu chính phủ Malta phải thêm vào một điều kiện đối với tiêu chuẩn xin nhập quốc tịch Malta, đó là phải cư trú ít nhất một năm ở Malta trước khi trở thành công dân của quốc gia này. Trước sức ép này, chính phủ Malta đã có những nhượng bộ nhất định. (BBC, 2014)
Câu chuyện về tấm hộ chiếu Malta cho chúng ta thấy, ngoài những giải pháp mang tính vĩ mô, để giải quyết khủng hoảng nợ công của Liên minh châu Âu vẫn còn một giải pháp đơn giản nhưng hiệu quả đó là chính phủ sẽ bán đi những lợi ích vô hình mà quốc gia mình có để đổi lại một khoản tiền lớn cho ngân sách quốc gia, mà trong trường hợp này đó là quốc tịch và những quyền lợi liên quan đến quốc tịch. Cũng cần phải nói thêm rằng, Malta không phải là quốc gia thành viên duy nhất của Liên minh châu Âu áp dụng chính sách này. Ngoài Malta còn có Tây Ban Nha, Italia với những mức giá bán hộ chiếu khác nhau tùy thuộc vào “đẳng cấp” của từng nước.
Mặc dù ai cũng có thể thấy được rủi ro của việc bán quốc tịch đó là khả năng các tổ chức tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia sẽ dễ dàng rửa tiền để có được tấm hộ chiếu của Liên minh châu Âu, sau đó sẽ thoát khỏi việc dẫn độ và/hoặc án tử hình đối với các quốc gia còn áp dụng án tử hình, tuy nhiên, khoản lợi nhuận lớn vẫn tỏ ra hết sức hấp dân.
Liệu đây có phải là một cách làm hay mà Việt Nam có thể học tập để xử lý các vấn đề tương tự của Việt Nam? Chính sách này có thể khả thi ở Việt Nam hay không? Nếu Việt Nam muốn áp dụng chính sách tương tự, mức giá bán tấm hộ chiếu Việt Nam sẽ là bao nhiêu? Để trả lời các câu hỏi này, trước hết chúng ta cần phải xem xét việc trở thành công dân Việt Nam có hấp dẫn trong mắt người nước ngoài hay không.
Hiện tại, căn cứ Điều 19 Luật Quốc tịch 2008 thì điều kiện để nhập tịch Việt Nam như sau:
Điều 19. Điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam
1. Công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam;
đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
2. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có các điều kiện quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép.
4. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
5. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
6. Chính phủ quy định cụ thể các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam.
Phân tích kĩ Điều 19 Luật Quốc tịch 2008, có thể nhận thấy rào cản lớn nhất để một người nước ngoài trở thành công dân Việt Nam đó là phải biết tiếng Việt thành thạo và đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên. Thêm vào đó, khi nhập quốc tịch Việt Nam, họ phải thôi quốc tịch nước ngoài trừ những trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định tùy theo từng trường hợp. Cụ thể, Về nguyên tắc, khi làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải xin thôi quốc tịch mà minh đang có, có nghĩa là chỉ được lựa chọn một trong hai quốc tịch. Tuy nhiên, do nếu người xin nhập quốc tịch có “vợ, chồng, cha, mẹ” là công dân Việt Nam thì có thể được xem xét giữ quốc tịch gốc nếu thuộc trường hợp đặc biệt được Chủ tịch nước cho phép theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Luật không quy định cụ thể về trường hợp đặc biệt nào công dân được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch gốc mà trên thực tế, việc xem xét cho phép người xin nhập quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch gốc được cân nhắc rất cẩn trọng dựa trên lý do, hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân xin nhập quốc tịch Việt Nam.
“Như vậy, có thể thấy Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008, Nghị định số 78/2009/NĐ-CP đã có sự mở rộng về những trường hợp cho phép được giữ quốc tịch nước ngoài nhưng đương sự phải chứng minh có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có lợi cho Nhà nước Việt Nam hoặc hoàn cảnh đặc biệt của họ. Điều này dễ dẫn đến sự ngộ nhận nếu thuộc diện ưu tiên thì đương nhiên không phải thôi quốc tịch gốc, nên đa số người nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam đều có nguyện vọng được giữ quốc tịch nước ngoài.
Khi Bộ Tư pháp thông báo họ phải thôi quốc tịch nước ngoài (vì không có lý do đặc biệt để trình Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài), thì họ không muốn nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam nữa. Theo tổng hợp của Phòng Quản lý quốc tịch, thời gian qua, Phòng đã tiếp và giải thích rất nhiều đề nghị hướng dẫn việc xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam nhưng không muốn thôi quốc tịch hiện có. Đa số những trường hợp này đều vừa muốn tận hưởng những điều kiện và lợi ích ở Việt Nam và vừa muốn có lợi ích từ quốc gia mà họ đang là công dân.
Chính thái độ “nửa vời” và sự không hiểu biết về pháp luật quốc tịch Việt Nam đã dẫn đến sự ngộ nhận không đáng có trong việc xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam.” (An, 2013). Thực tế cho thấy không có nhiều người nước ngoài cảm thấy quốc tịch Việt Nam là đủ hấp dẫn để họ tìm mọi cách nhập tịch mà bỏ đi quốc tịch cũ. Người nước ngoài luôn muốn giữ lại quốc tịch cũ và thêm vào quốc tịch Việt Nam để tiện cho công việc và/hoặc sinh hoạt hàng ngày. Vậy nếu chính phủ Việt Nam áp dụng chính sách bán quốc tịch như Malta, liệu đối tượng nào sẽ có nhu cầu mua quốc tịch Việt Nam?
Những đối tượng mà chính phủ Việt Nam hướng tới có thể là các cầu thủ nước ngoài đang thi đấu bóng đá chuyên nghiệp trong màu áo các câu lạc bộ V-League, những doanh nhân đang kinh doanh nước ngoài đang làm ăn buôn bán ở Việt Nam etc.
Vậy làm thế nào để nhà nước Việt Nam giải quyết vấn đề một cách hợp lý? Không nhất thiết chúng ta phải máy móc sao chép cách làm của Malta bởi vì vẫn còn những giải pháp khác, nhẹ nhàng hơn mà vẫn giải quyết được vấn đề. Đơn cử, các nước như Áo, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh, Bulgaria và Hungary đều đang áp dụng chính sách sẵn sàng cấp giấy phép cư trú dài hạn đối với các cá nhân nước ngoài đầu tư một khoản tiền lớn vào tài sản và/hoặc mua trái phiếu của chính phủ. Đương nhiên, giấy phép cư trú dài hạn cũng thường dẫn đến việc nhập tịch trong tương lai và nếu áp dụng chính sách này, Việt Nam cần hoạch định lộ trình và sửa đổi pháp luật về quốc tịch, công tác lãnh sự và quản lý ngân sách tương ứng.
Tóm lại, trong số rất nhiều bài học mà các tác giả khác có thể đề cập đến liên quan vấn đề nợ công ở châu Âu, câu chuyện về tấm hộ chiếu của Malta có thể được tiếp cận như một giải pháp cần được xem xét và đánh giá một cách nghiêm túc như một trong các giải pháp mang tính sách lược và/hoặc chiến lược để giải quyết khó khăn về tài chính cho chính phủ Việt Nam. Tác giả không có tham vọng rằng bài viết của mình sẽ đưa ra một giải pháp hoàn chỉnh và/hoặc một kinh nghiêm quý báu cho vấn đề nợ công của Việt Nam nhưng nếu có thể, rất hy vọng bài viết sẽ gợi mở một cách tiếp cận mới cho những người làm chính sách của nước nhà.
TRẦN TUẤN ĐẠT
1. An, Trần Cẩm. 2013.Vấn đề xin giữ quốc tịch nước ngoài khi xin nhập hoặc xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Trang thông tin hộ tịch, quốc tịch, chứng thực - Bộ Tư pháp. [Online] December 02, 2013. [Cited: July 10, 2014.] http://www.moj.gov.vn/qtht/Pages/tin-dia-phuong.aspx?ItemID=5523.
2. BBC. 2014.BBC News. Malta tightens passport sale terms under EU pressure. [Online] January 30, 2014. [Cited: October 12, 2014.] http://www.bbc.com/news/world-europe-25959458.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: