Các nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ Bao thanh toán (tiếp theo)
Các nhân tố chủ quan
* Chính sách tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng về nghiệp vụ BTT
Chính sách tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng là chính sách nhằm mục đích giới thiệu cho KH các sản phẩm, dịch vụ,… của ngân hàng. Chính sách tuyên truyền, quảng bá là chính sách cần được ưu tiên trước khi muốn phát triển nghiệp vụ BTT vì KH có biết đến sản phẩm thì mới có thể mở rộng được nghiệp vụ. Nghiệp vụ này được chú trọng thì KH mới có thể biết đến dịch vụ BTT một cách rõ ràng, cụ thể, giúp KH có căn cứ để lựa chọn sản phẩm của ngân hàng.
* Quy mô, uy tín, năng lực tài chính của ngân hàng
Quy mô và uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc gia tăng số lượng cũng như chất lượng dịch vụ BTT. Đối với những ngân hàng có lượng vốn tự có cao, mạng lưới CN rộng khắp, thuận tiện về mặt địa lý cho các doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ, tạo điều kiện trong việc phát triển nghiệp vụ BTT. Bên cạnh đó, uy tín của ngân hàng cũng là một yếu tố đóng góp đáng kể vào việc tăng khả năng thành công cho ngân hàng do KH khi đến vay tại ngân hàng có uy tín cao thường an tâm hơn những ngân hàng khác.
Năng lực tài chính của ngân hàng được xác định dựa trên một số yếu tố như số lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận năm sau so với năm trước, tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ, số lượng tài sản thanh khoản,... Nếu ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận cao, nợ quá hạn thấp và có số lượng tài sản thanh khoản lớn, khả năng huy động vốn lớn trong thời gian ngắn thì có thể coi là có sức mạnh về tài chính. Khi có sức mạnh tài chính lớn, ngân hàng có thể đầu tư vào các danh mục mà ngân hàng quan tâm hơn thì lúc này nghiệp vụ BTT sẽ có cơ hội phát triển; nhưng ngược lại, nếu ngân hàng không có được số vốn cần thiết để tài trợ cho cho các nghiệp vụ được ưu tiên hơn thì nghiệp vụ BTT sẽ ít có cơ hội để mở rộng. Như vậy, đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra các kế hoạch phát triển BTT. Có năng lực tài chính đủ mạnh, NHTM mới có thể cung ứng cho bên bán đầy đủ và kịp thời, khả năng đáp ứng nhu cầu ứng trước cho doanh nghiệp cao, tạo cơ sở cho nghiệp vụ tín dụng nói chung và nghiệp vụ BTT nói riêng.
* Quy trình xét duyệt BTT
Quy trình xét duyệt BTT đóng một vai trò quan trọng trong phát triển nghiệp vụ này tại ngân hàng. Với một quy trình nhanh chóng, gọn nhẹ, ít thủ tục rườm rà sẽ làm thỏa mãn KH. Tuy nhiên, nếu quy trình không đủ chặt chẽ có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Quy trình BTT tại ngân hàng hiện nay khá chặt chẽ và tốn nhiều thời gian, ngân hàng phải đi qua tất cả các khâu từ tiếp nhận hồ sơ cho đến thẩm định vừa bên mua hàng, vừa bên bán hàng,… Do đó, xây dựng một quy trình hợp lý luôn tác động không nhỏ đến việc phát triển nghiệp vụ này tại ngân hàng.
* Chính sách giá cả
Khi sử dụng dịch vụ BTT, KH luôn luôn phải trả một khoản phí. Đây được xem như giá cả KH phải trả cho việc sử dụng khoản tiền ứng trước từ các KPT. Nghiệp vụ BTT được xem là hình thức tài trợ có chi phí cao. Bên cạnh đó, chi phí hành chính với tỷ lệ quy định sẵn cho mỗi hóa đơn được áp dụng dịch vụ BTT cũng có thể khá cao. Đối với một doanh nghiệp có doanh thu bán hàng quá nhỏ thì BTT không phải là một lựa chọn tối ưu. Thông thường phí BTT quốc tế cao hơn phí BTT nội địa, phí BTT miễn truy đòi cao hơn BTT có quyền truy đòi. Những nhân tố có thể ảnh hưởng đến giá BTT:
+ Khối lượng công việc: Khối lượng công việc nhiều hơn (số hóa đơn, phiếu ghi có,…) thì chi phí cao hơn và do đó giá phí sẽ cao hơn. Ngoài ra, trong BTT quốc tế, nếu thông tin cung cấp cho đơn vị BTT nhập khẩu không đầy đủ thì đơn vị BTT nhập khẩu có thể báo giá cao hơn.
+ Chi phí hệ thống: Những chi phí gửi thông tin đi nước ngoài, xử lý giao dịch bằng một số đồng tiền khác nhau, xử lý thông tin dữ liệu bằng tiếng nước ngoài,… trong nghiệp vụ BTT quốc tế chắc chắn sẽ làm cho chi phí nghiệp vụ này cao hơn so với BTT nội địa.
Chi phí trong BTT thông thường bao gồm hai phần là tiền lãi (phí chiết khấu) và phí hoa hồng:
+ Tiền lãi (phí chiết khấu) thường được tính trên tỷ lệ tương đương với tỷ lệ thấu chi ngân hàng cho phép đối với mỗi ngành nghề kinh doanh, tương đương lãi suất chiết khấu hoặc cao hơn lãi suất vay ngắn hạn một chút. Tỷ lệ này phụ thuộc chất lýợng khoản nợ và khoảng thời gian cần thiết tối thiểu ðể thu hồi ðýợc nợ từ ngýời mua.
+ Phí hoa hồng là phí dịch vụ ðể trang trải các chi phí quản lý sổ sách bán hàng và thực hiện chức năng quản lý tín dụng của các đơn vị BTT. Đối với BTT quốc tế, phí BTT bao gồm hai phần: Phí của đại lý BTT nhập khẩu và phí của đại lý BTT xuất khẩu.
Nếu chi phí quá cao, KH sẽ e ngại khi sử dụng dịch vụ. Trong khi nếu chi phí quá thấp lại khiến cho lợi nhuận của ngân hàng sụt giảm, không đảm bảo thu chi của ngân hàng. Một chính sách giá cả hợp lý đối với từng giai đoạn phát triển dịch vụ BTT sẽ là một bài toán khó khăn cần phải giải quyết đối với ngân hàng khi muốn phát triển nghiệp vụ này trong tương lai.
* Chính sách, quy định khác liên quan đến nghiệp vụ BTT của ngân hàng
Nghiệp vụ BTT dù ra đời khá lâu nhưng vẫn còn là một nghiệp vụ khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Đà Nẵng nói riêng. Do đó, nếu không có một chính sách và quy định đúng đắn, phù hợp sẽ khó tạo điều kiện để phát triển nghiệp vụ BTT. Một chính sách đề ra các mục tiêu, định hướng phát triển trong từng giai đoạn sẽ giúp nghiệp vụ mới mẻ này khắc phục những nhược điểm có thể gặp phải khi ngân hàng triển khai đến KH.
* Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng
Nghiệp vụ BTT có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào người điều hành, vào chính các cán bộ nhân viên của ngân hàng. Bởi vậy, trước tiên muốn nghiệp vụ BTT phát triển thì cần phải quan tâm đến phẩm chất, đạo đức của các cán bộ nhân viên. Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vị trí hàng đầu trong các nhân tố khách quan thì đạo đức nhân viên được xếp vào vị trí hàng đầu trong các nhân tố chủ quan. “Có tài mà không có đức là người vô dụng”, nếu các nhân viên không có đạo đức nghề nghiệp thì dù giỏi đến mấy cũng không có giá trị; vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng làm tổn hại đến lợi ích của tập thể ngân hàng. Vì lợi ích cá nhân, họ có thể thông đồng với bên mua và bên bán, tạo lập các hồ sơ ảo, gây rủi ro cho ngân hàng,… Tuy nhiên, đạo đức không thôi chưa đủ, nhân viên ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ hiểu biết rộng thì mới thẩm định chính xác bên mua và bên bán, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn. Một nhân viên ngân hàng có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp, marketing tốt, trình độ ngoại ngữ, vi tính thành thạo, nhiệt tình trong công việc, có đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo được ấn tượng đẹp trong KH về ngân hàng, bởi dưới con mắt của KH thì cán bộ ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu khi giao tiếp với cán bộ ngân hàng, KH cảm thấy an tâm về trình độ nghiệp vụ, hài lòng với phong cách giao tiếp của cán bộ ngân hàng, an toàn trong quan hệ với ngân hàng thì họ chắc chắn sẽ còn tìm tới ngân hàng. Hơn nữa, các nhân viên ngân hàng có mối quan hệ rộng trong xã hội cũng có thể thu hút được nhiều KH hơn. Bên cạnh đó, một ngân hàng phải có số lượng nhân viên hợp lý, phân công công việc cụ thể thì ngân hàng đó mới có thể phát triển không chỉ ở nghiệp vụ BTT mà còn ở tất cả các nghiệp vụ khác nữa.
Lưu Thu Hương
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: