Ảnh hưởng của các công cụ điều tiết tài chính đến nền kinh tế
Tài chính là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, vì cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, tài chính đã tham gia vào quá trình quản lý nền kinh tế, tức là nhà nước đã khai thác, vận dụng các công cụ của tài chính để điều hành nền kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước sử dụng tài chính như là một công cụ để quản lý và điều tiết vĩ mô trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, gây tác động để các quan hệ kinh tế vận động theo định hướng của Nhà nước;
Thứ hai, hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội phù hợp với các chính sách kinh tế của Nhà nước;
Thứ ba, kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ kinh tế nhằm thích ứng với những biến động của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế. Về lĩnh vực tài chính, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế, mà can thiệp gián tiếp thông qua luật tài chính, chính sách tài chính và các công cụ tài chính để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhất.
Ngân sách Nhà nước:
Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính quan trọng trong hệ thống tài chính, là cơ sở để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế- xã hội. Vấn đề là làm sao để xây dựng một ngân sách mạnh, có đủ thực lực làm chỗ dựa cho việc thực thi các quan hệ điều tiết. Ngân sách Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ: thuế, các biện pháp tài trợ, quỹ dự trữ quốc gia.
Vai trò điều tiết của ngân sách Nhà nước được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau:
Trong lĩnh vực kinh tế, ngân sách Nhà nước thực hiện việc định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, chống độc quyền. Với công cụ thuế, một mặt Nhà nước tạo được nguồn thu, mặt khác Nhà nước định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế khác nhau, bằng mức thuế suất hợp lý, Nhà nước có thể kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của các ngành, nghề hoặc mặt hàng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cân đối.
Thông qua hoạt động chi ngân sách, Nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các vùng kinh tế, các ngành kinh tế mũi nhọn và các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt. Bằng chính sách đầu tư đúng đắn, ngân sách Nhà nước tác động đến việc chống độc quyền và hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Về mặt xã hội, thông qua hoạt động thu chi, ngân sách Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo công bằng xã hội. Thông qua hệ thống thuế trực thu và gián thu, Nhà nước một mặt huy động sự đóng góp thu nhập của các thành phần kinh tế và dân cư vào ngân sách Nhà nước, mặt khác điều tiết thu nhập của họ, thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, thông qua hoạt động chi của Nhà nước: trợ cấp xã hội cho người nghèo, trẻ mồ côi, khuyết tật,…chi các khoản phúc lợi như: phổ cập giáo dục tiểu học, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kế hoạch hóa gia đình,…
Nền kinh tế thị trường với hoạt động của quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị dễ dẫn đến sự mất cân đối cung, cầu về hàng hóa làm giá cả hàng hóa biến động, gây nhiều ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế và xã hội, do đó Nhà nước phải can thiệp vào thị trường nhằm điều tiết cung- cầu, ổn định giá cả, biểu hiện: Khi giá cả của một hay một số hàng hóa đột biến tăng cao do cầu vượt cung, cần thiết Nhà nước có thể điều tiết bằng cách đưa dự trữ loại hàng hóa này ra bán trên thị trường để cân đối cung cầu, bình ổn giá cả và hạn chế khả năng kéo theo sự tăng giá hàng loạt của các mặt hàng khác, hoặc xuất ngoại tệ dự trữ để nhập hàng , hoặc giảm thuế suất cho những hàng hóa đó được nhập khẩu. Ngược lại, khi giá cả một loại hàng hóa nào đó giảm do cung vượt cầu gây thiệt hại cho người sản xuất và có ảnh hưởng bất lợi đối với định hướng phát triển kinh tế, Nhà nước có thể thu mua loại hàng hóa này với giá thích hợp hoặc có chính sách hỗ trợ giá để đảm bảo lợi ích của người sản xuất kinh doanh cũng như lợi ích của xã hội, đồng thời đảm bảo cơ cấu kinh tế đã xác định.
Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, ngân sách Nhà nước có thể tham gia các thị trường này, một mặt tạo nguồn tài chính cho ngân sách, mặt khác góp phần điều hòa lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua phát hành công trái, trái phiếu, tín phiếu kho bạc để vay vốn trong và ngoài nước, tham gia kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, việc tham gia điều tiết thị trường tiền tệ, thị trường vốn của ngân sách Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ với chính sách tiền tệ của ngân sách Nhà nước.
Thuế:
Thuế là công cụ điều tiết kinh tế linh hoạt và có hiệu quả. Vai trò điều tiết của thuế được thực hiện thông qua việc xác lập hệ thống các loại thuế khác nhau, thuế suất khác nhau, chế độ ưu đãi miễn giảm thuế…nhằm tác động vào nhiều mối quan hệ kinh tế để thực hiện các mục tiêu đã định của Nhà nước. Mặc dù mọi người đều thừa nhận tác động của thuế trong vấn đề phân phối, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau về sử dụng nó ở mức độ nào, sử dụng ra sao để vừa kích thích phát triển kinh tế, vừa điều hoà thu nhập, bảo đảm thích đáng nguồn thu ngân sách.
Ở nước ta, công cụ thuế với tư cách là một công cụ của chính sách tài chính, chỉ mới thực sự phát huy vai trò của nó đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế từ 1990, khi Nhà nước Việt Nam chính thức ban hành hệ thống thuế mới. Với hệ thống thuế này chính sách tài chính của quốc gia đã tác động tích cực đến nền tài chính quốc gia: giảm đáng kể bội chi ngân sách, góp phần chặn đứng lạm phát, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng tốt. Tuy còn hạn chế trong cơ cấu của hệ thống thuế và thuế suất trong một vài luật thuế, nhưng chúng ta đã thấy được kết quả tích cực của công cụ này đối với kinh tế xã hội nước ta trong những năm qua.
Chính sách tài trợ:
Thực hiện các hình thức và biện pháp tài trợ có trọng điểm sẽ khuyến khích việc hình thành và phát triển các ngành kinh tế vì lợi ích quốc gia. Tài trợ được thực hiện bằng nhiều con đường khác nhau như: chế độ miễn, giảm thuế, hưởng lãi suất tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, bù lỗ, trợ giá.
Khi gia nhập WTO, Nhà nước đã giúp đỡ cho các doanh nghiệp bằng các bảo hộ mậu dịch thương mại, hàng rào thuế quan… để cho những doanh nghiệp nhỏ lẻ của chúng ta có thể có điều kiện tạo lập vững mạnh hơn. Như ngành ô tô, khi ngành ô tô trong nước của chúng ta mới chỉ dừng lại ở lắp ráp. Nhà nước đã tìm cách để cho nền công nghiệp ô tô của chúng ta có thể đương đầu với ô tô ngoại nhập. Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu… đã làm cho nền công nghiệp ô tô có thể vươn vai để phát triển. Trong từng giai đoạn cụ thể của nền kinh tế, Nhà nước cũng đã thực hiện trợ giá cho xăng dầu và sau đó là bù lỗ.
Để tạo việc làm cho người lao động, Chính phủ đã sử dụng quỹ hỗ trợ việc làm, hộ trợ lãi suất cho vay, hỗ trợ đào tạo nghề… Liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội vừa có Tông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động giai đoạn 2009-2020”. Theo đó, từ ngày 24-10, người lao động sinh sống tại huyện nghèo (có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú đủ 12 tháng trở lên) được hỗ trợ kinh phí để đi xuất khẩu lao động. Cụ thể, người lao động đã tốt nghiệp từ bậc tiểu học trở lên, cần bổ túc thêm về văn hóa được hỗ trợ toàn bộ học phí, tài liệu học tập, chi phí sinh hoạt trong thời gian học. Về hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ sẽ thực hiện theo hai mức: người dân tộc thiểu số được hỗ trợ toàn bộ kinh phí; các đối tượng khác được hỗ trợ 50%. Thông tư cũng quy định người lao động thuộc các hộ nghèo, người dân tộc thiểu số đi xuất khẩu lao động được vay vốn với lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội…Hay như chính sách cho sinh viên nghèo vay vốn, cho người nghèo vay vốn…Ngày 16.7.2009 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay của người nghèo và các đối tượng chính sách khác tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Theo đó, toàn bộ khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo cơ chế cho vay hiện hành được hỗ trợ lãi suất theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư này. Loại cho vay được hỗ trợ lãi suất là các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Đối với các khoản vay thuộc diện được ân hạn (Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên…), Ngân hàng Chính sách xã hội được thực hiện giảm lãi suất tương ứng với mức và thời gian hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Thông tư này ở thời điểm thu lãi.
Quỹ dự trữ tài chính quốc gia:
Quỹ dự trữ tài chính quốc gia là một công cụ tài chính đảm bảo cho quá trình vận hành kinh tế thuận lợi. Nhờ vào quỹ này mà Nhà nước có thể ứng phó với những biến động bất lợi và nhanh chóng phục hồi nền kinh tế khi có những thiệt hại xảy ra.
Hoạt động dự trữ quốc gia hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Dự trữ quốc được sử dụng cho hai mục đích:
+ Điều chỉnh hoạt động của thị trường, điều hòa cung cầu về tiền, ngoại tệ và một số mặt hàng thiết yếu: gạo, xăng dầu …trên cơ sở đó bảo đảm ổn định cho nền kinh tế.
Khi giá cả của một số mặt hàng đột biến tăng cao do cầu vượt cung, cần thiết Nhà nước có thể điều tiết gằng cách đưa dự trữ loại hàng hóa này ra bán trên thị trường để cân đối cung cầu, bình ổn giá và hạn chế khả năng kéo theo sự tăng giá hàng loạt của các mặt hàng khác, hoặc xuất ngoại tệ dự trữ để nhập hàng hoặc giảm thuế suất cho những hàng hóa đó nhập khẩu. Ngược lại, khi giá cả của hàng hóa nào đó giảm mạnh do cung vượt cầu gây thiệt hại cho người sản xuất và có ảnh hưởng bất lợi đối với định hướng phát triển kinh tế, Nhà nước có thể thu mua loại hàng hóa này với gía thích hợp hoặc có chính sách trợ giá để đảm bảo lợi ích của người SXKD cũng như lợi ích của XH, đồng thời đảm bảo cơ cấu kinh tế đã xác định.
+ Giải quyết hậu quả các trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống .
Dĩ nhiên, hiệu quả tác động của tài chính phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Định hướng của người quản lý có đúng hay không? Nhằm vào mục tiêu gì? Nó đem lại lợi ích cho ai?
- Khả năng nhận thức được đầy đủ các tác động của từng công cụ và lựa chọn đúng các công cụ để tác động.
- Kỹ năng sử dụng tối ưu các công cụ tài chính.
Trong cả ba yếu tố, vai trò của người quản lý là cực kỳ quan trọng.
Việc sử dụng các công cụ tài chính nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội rõ ràng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của Nhà nước, bao gồm cả năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực thích ứng chính sách với những diễn biến của thực tiễn. Mặt khác, dù cơ chế điều tiết của thị trường tài chính là tự phát nhưng vai trò quản lý của Nhà nước ở đây cũng rất quan trọng. Nhà nước trước hết tác động lên thị trường tài chính (chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế) để qua thị trường tác động lên nền kinh tế. Tuy nhiên, cần lưu ý một hậu quả tiêu cực: sự can thiệp của Nhà nước có thể làm lệch hướng, méo mó thị trường. Suy cho cùng, chỉ có hai giải pháp: không ngừng hoàn thiện kỹ năng quản lý của Nhà nước và giảm dần sự can thiệp của Nhà nước ở những nơi không cần thiết.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: