Phân tích quy luật lợi thế so sánh
PHÂN TÍCH QUY LUẬT LỢI THẾ SO SÁNH
Quy luật lợi thế so sánh là quy luật cơ bản của thương mại quốc tế, mang tính khách quan, ổn định và lâu dài. Các giao dịch mang bản chất thương mại diễn ra trên phạm vi quốc tế tuân theo quy luật này. Đây không phải là quy luật cung- cầu, cạnh tranh hay lưu thông tiền tệ...với tư cách là quy luật kinh tế kinh tế nói chung mà nó là quy luật phát huy tác dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Ở phạm vi khái quát nhất, các quy luật kinh tế chỉ ra đời trên cơ sở những tiền đề nhất định. Khi có sự trao đổi quốc tế diễn ra là có sự vận hành của quy luật này. Quy luật lợi thế so sánh được vận dụng để xác định những mặt hàng được đưa ra trao đổi và các khoản lợi ích thu được từ trao đổi quốc tế trên cơ sở chênh lệch về hao phi lao động tương đối sử dụng trong sản xuất các mặt hàng. Mặt hàng nào có hiệu quả tương đối cao hơn sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng. Trong trường hợp một quốc gia bất lợi thế tuyệt đối về tất cả các mặt hàng, quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế và thu được lợi ích nếu chọn mặt hàng có lợi thế so sánh. Điều này làm cho lợi thế so sánh trở thành một học thuyểt có tính nền tảng trong thương mại quốc tế và đã trở thành quy luật cơ bản của trao đổi quốc tế. Các quốc gia dù ở trình độ phát triển nào nếu tham gia vào thương mại quốc tế theo quy luật lợi thế so sánh đều thu được lợi ích.
Lợi thế so sánh được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau về mặt lý thuyết do góc độ nhận thức và quá trình chứng minh khác nhau. Để phát hiện ra quy luật lợi thế so sánh, có nhiều nghiên cứu khác nhau và tư tưởng khởi đầu là lợi thế tuyệt đối của A. Smith (1776) dựa trên sự ủng hộ xu hướng tự do hoá thương mại. Trước hết và sơ khai nhất là cách xem xét lợi thế so sánh từ góc độ hao phí lao động để sản xuất ra các mặt hàng (D. Rỉcardo, 1817) của hai quốc gia và hai hàng hoá . Các giả định được đưa ra để bảo đảm cho lý thuyết được chấp thuận là thế giới chỉ có hai quốc gia và hai hàng hoá, lao động là yếu tố sản xuất duy nhất chỉ di chuyển trên phạm vi quốc gia mà không di chuyển trên phạm vi quốc tế, công nghệ sản xuất không đổi, không có chi phí vận tải và hàng rào thuế quan, và thương mại diễn ra hoàn toàn tự do. Nhờ có các giả định, lý thuyết lợi thế so sánh đã từng bước tiếp cận đến quy luật lợi thế so sánh trong trao đổi thương mại quốc tế. Hình dạng của đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh khả năng bổ sung cơ cấu thương mại của các quốc gia. Quốc gia có đường giới hạn khả năng sản xuất nghiêng về phía các mặt hàng sử dụng nhiều vốn sẽ có cường độ trao đổi rất lớn với các quốc gia có đường giới hạn khả năng sản xuất nghiêng về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Để lợi thế so sánh phát huy tác dụng, cần có các điều kiện nhất định nghĩa là sự vận hành của lợi thế so sánh dựa trên một loạt các giả định như thương mại diễn ra tự do và không có các loại rào cản thuế quan và phi thuế quan cũng như các rào cản khác, không có sự di chuyển các yếu tố trên phạm vi quốc tế, hiệu quả sản xuất không thay đổi theo quy mô, công nghệ sản xuất không đổi, cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường yếu tố và thị trường đầu vào tức là không có sự can thiệp của các chính phủ vào thị trường làm méo mó thương mại mà thực chất là làm biến dạng lợi thế so sánh, sở thích của các dân tộc giống nhau, cân bằng cán cân thương mại...Trên thực tế, lợi thế so sánh vẫn xuất hiện mặc dù các ràng buộc không cần thiết phải ngặt nghèo như các giả định được nêu trong việc chứng minh bản chất của quy luật.
Từ các vấn đề nêu trên có thể thấy để có lợi thế so sánh thuần tuý, cần có các điều kiện để bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển lợi thế này. Các điều kiện đó là các giả định được chứng minh trong quá trình luận giải bản chất của lý thuyết. Nếu thiếu các giả định này, lợi thế so sánh không được bộc lộ thậm chí bị triệt tiêu và lợi thế trở thành bất lợi. Nói cách khác, lợi thế so sánh được bộc lộ khi có các điều kiện nhất định. Để lợi thế so sánh bộc lộ tối đa, cần thoả mãn các giả định hay những điều kiện ràng buộc. Quốc gia có lợi thế so sánh khi tham gia vào thương mại quốc tế thu được lợi ích từ thương mại và có thể đạt lợi ích thương mại tối đa.
Th.S. Nguyễn Thị My My
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: