Mô hình kinh doanh
MÔ HÌNH KINH DOANH
Một mô hình kinh doanh là một sự tường thuật về cách mà một công ty làm thế nào sẽ tạo giá trị cho khách hàng và quan trọng hơn là làm thế nào để sinh lợi cho công ty nhất. Chúng ta thường nghe hoặc đọc về những công ty mà có “thay đổi mô hình kinh doanh của họ” theo cách này hay cách khác nhưng điều đó không hoàn toàn luôn luôn rõ ràng. Để hiểu được điều này, chúng ta cần nắm rõ một vài khái niệm về kế toán căn bản.
Đầu tiên, chi phí cố định thường được coi là chi phí mà công ty phải chịu cho dù số lượng sản phẩm tạo ra bao nhiêu đi nữa. Chẳng hạn, bạn đang sản xuất sản phẩm nào đó trong một nhà máy, bạn phải trả tiền thường xuyên cho việc sử dụng nhà máy đó, sự hao mòn của máy móc, các dịch vụ công cộng, thuế tài sản và vân vân. Thêm nữa, bạn có một số lượng nhân viên những người làm việc theo giờ với mức tiền trợ cấp nhất định trong khi đó bạn cũng có thể thay đổi những người này qua thời gian, trên một cơ sở theo đúng quy tắc đó là bạn đều phải trả lương cho tất cả người lao động cho dù nhà máy bạn chạy 70% công suất hay là 95% công suất đi nữa.
Thứ hai, bạn có một lượng chi phí biến đổi, chi phí này thay đổi một cách trực tiếp tùy theo số lượng sản phẩm được tạo ra. Ví dụ, tất cả những nguyên liệu để tạo ra sản phẩm nào đó có thể tốn chi phí khoảng 10 đô la, có nghĩa là bạn phải trả ít nhất 10 đô la cho một sản phẩm, hoặc là bạn không thể trả hết chi phí biến đổi của việc sản xuất đó.
Ba là khái niệm “lãi suất đóng góp” hay còn gọi là lãi suất. Lãi suất là sự khác nhau giữa cái mà bạn phải trả cho sản phẩm của bạn và chi phí biến đổi của sản phẩm đó. Chúng được gọi là lãi suất đóng góp bởi vì chúng là những gì góp phần vào khả năng của bạn để bao hết những chi phí cố định. Nên chẳng hạn nếu bạn trả 15 đô la cho một sản phẩm nào đó, lãi suất đóng góp của bạn sẽ là 5 đô (giá 15 đô trong đó 10 đô chi phí biến đổi).
Thứ tư, lãi suất chung là tổng số lượng lãi suất mà bạn tạo ra và được tính theo số lượng của những sản phẩm được nhân với lãi suất đóng góp. Nếu bạn bán được 1 triệu sản phẩm, lãi suất chung của bạn sẽ là 5 triệu đô la. Bạn đã tạo ra lợi nhuận chưa? Điều đó còn tùy. Lợi nhuận ám chỉ những gì còn lại sau khi bạn đã trả hết chi phí cố định và chi phí biến đổi. Nếu như lãi suất chung của bạn được 5 triệu nhưng chi phí của bạn đã tới 6 triệu đô la thì bạn đã lỗ 1 triệu đô la rồi.
Vì vậy, quay lại với trường hợp của hãng mô tô General mà chúng ta đã bắt đầu ở chương này, điều đó nói lên điều gì khi thiết kế lại mô hình kinh doanh của GM trong một thời gian dài cạnh tranh? Nếu bạn xem ở sơ đồ 2.1, bạn sẽ thấy rằng đường thẳng liên tục để chỉ mô hình kinh doanh cũ của GM, cái mà dựa vào những dự án mà GM có thể bán được 4 triệu sản phẩm với một lãi suất cao một cách hợp lý và vì vậy hoàn toàn có thể trả được chi phí cố định để tạo ra lợi nhuận cao. Tuy nhiên, thực tế là những sản phẩm của công ty lúc đó không bán được với giá cao vì vậy để thử bán 4 triệu xe, GM đưa ra chiết khấu và cắt bớt lãi suất. Khi GM cuối cùng bán chỉ được 3,5 triệu xe và những xe này được bán với lãi suất thấp, công ty lúc này không thể trả được hết chi phí cố định của nó, và dẫnn đến việc lỗ 9 tỉ đô la trong năm 2008. (Điều này được thấy ở những đường gạch đứt màu xanh ở dưới sơ đồ). Vì vậy, khi GM tham khảo “mô hình kinh doanh được thiết kế lại”, thì những gì mà sự tham khảo này đem lại đó là sự giảm thiểu một cách đáng kể trong những chi phí cố định (đóng của một số nhà máy và cắt giảm công nhân) để chi phí cố định đủ thấp (đường gạch đứt màu đỏ) để việc bán xe vẫn tiếp tục mang lại lợi nhuận ở mức lãi suất thấp ( vẫn là đường gạch đứt màu đỏ).
0 3 triệu 4 triệu 5 triệu
Sơ đồ 2.1: Một ví dụ minh họa về mô hình kinh doanh của GM
Một điều có thể thấy một cách dễ dàng là cách nào, được đưa ra cho một bộ phận lớn – đó là chi phí lao động cũng là chi phí chính của hầu hết các công ty, sự tham khảo vào các mô hình kinh doanh hầu hết dẫn đến một cách chắc chắn đó là sự thảo luận về chi phí lao động. Điều này có thể là do chi phí cao liên quan đế các tổ chức công đoàn nhân công hiện tại ở những những nước phát triển bao gồm Bắc Mỹ hoặc châu Âu hoặc trong một vài trường hợp, chi phí cao liên quan đến lực lượng lao động kế thừa. Ví dụ, những công ty sản xuất ô tô Big Three có một số lượng khổng lồ công nhân đã nghỉ hưu nhưng vẫn các công ty này vẫn phải có trách nhiệm trả lương hưu và các trợ cấp về chăm sóc sức khỏe cho những người này. Đây là một bộ phận đáng kể của nền tảng chi phí cố định của các công ty này, những cái mà làm khó họ để có thể cạnh tranh với các công ty sản xuất ôtô khác những công ty mà có số lượng công nhân về hưu ít hoặc không có những chi phí có thể so sánh được bởi vì chính phủ sở tại của họ đã cung cấp tiền về hưu hoặc trợ cấp chăm sóc sức khỏe cho những người này rồi. Bảng “cạnh tranh thông qua công nghệ” ở trên mô tả làm thế nào để số lượng các thương nhân bán lẻ đang sử dụng công nghệ phù hợp được một cách hiệu quả những kế hoạch làm việc của nhân viên với khối lượng khách hàng nhằm chăm sóc hiệu quả những khách hàng của họ theo một cách thức có hiệu quả.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: