Các xu thế tự do hóa thương mại của khối ASEAN trong những thập niên gần đây
ASEAN hiện tại gồm 6 nền thành viên lâu đời, có trình độ phát triển cao Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thailand và 4 nền kinh tế CLMV tương đối nghèo. Vào năm 1995, nền kinh tế 10 quốc gia ASEAN có tổng GDP – thước đo qui mô nền kinh tế - ngang bằng với 12% GDP của Nhật Bản tính theo US$ hiện tại và bằng 2/3 GDP của Nhật Bản nếu tính theo ngang giá sức mua (PPP) (Bảng 1). Thu nhập bình quân đầu người – thước đo về mức sống – thấp hơn mức sống của Nhật vào năm 1995 nếu tính theo US$ (ví dụ: Singapore ngang với 59% mức của Nhật Bản, Malaysia chỉ bằng 10% mức của Nhật Bản, Thái lan là 7%, mức sống ở Campuchia, Lào, và Việt Nam chỉ ngang với 1% mức tương ứng ở Nhật).
Sau mấy thập niên phát triển kinh tế cao, kinh tế của nhiều quốc gia ASEAN đã suy giảm sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1998. Mức độ suy giảm lớn nhất ở Indonesia, Thailand và Malaysia, với GDP thực tế tính theo đơn vị tiền tệ quốc gia giảm từ 13%, 11% và 7.4% tương ứng. Các nền kinh tế Brunei, Philippines và Singapore có tốc độ tăng âm. Khủng khoảng tài chính 2008 khiến cho các nền kinh tế Brunei, Malaysia, Singapore và Thailand suy thoái vào năm 2009. Bên cạnh vấn đề chu kỳ suy thoái, cơ cấu kinh tế cũng được cho rằng là nhân tố kìm hãm tốc độ tăng trong dài hạn ở nhiều nền kinh tế của khu vực.
Tuy vậy, đến năm 2015 nền kinh tế khu vực ASEAN theo dự đoán đã chiếm hơn 55% qui mô kinh tế của Nhật Bản nếu tính theo US$ hiện tại hoặc hơn một phần ba (38%) tính theo đơn vị PPP. Mặc dù tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với tốc độ tăng thời kỳ phát triển mạnh trước khủng hoảng tài chính Châu Á, nền kinh tế ASEAN đã phát triển nhanh hơn hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong giai đoạn 1995-2015. Hiện nay, ASEAN trở thành thị trường lớn cho hàng hóa và dịch vụ của các đối tác lớn. Mặc dù nền kinh tế ASEAN đối đầu với nhiều thách thức, thị trường ASEAN chắc chắn là sẽ tiếp phát triển nhanh trong nhiều năm sắp đến (Ramstetter & Kophaiboon, 2015).
Quá trình hội nhập kinh tế của khối ASEAN diễn ra rất chậm kể từ khi thành lập. Bước tiến cơ bản hướng đến việc hội nhập chính thức là thỏa thuận thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1992. Đến năm 2010, hàng rào thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu giữa các nước ASEAN được gỡ bỏ, tuy nhiên thị phần của thương mại nội bộ khối ASEAN rất thấp chỉ chiếm khoảng ¼ tổng thương mại của ASEAN và tỷ trọng này không thay đổi nhiều từ năm 2005. Mặc dù quan sát bên ngoài có thể cho rằng Khu mậu dịch tự do AFTA không có hiệu quả để phát triển thương mại nội bộ khối, các phân tích kỹ lưỡng cho rằng AFTA đã đẩy nhanh thương mại bội bộ khối ở một mức độ nhất định, mặc dù hiệu quả của nó là tương đối nhỏ (Elliot và Ikemoto 2004; Nguyen 2009). Quan trọng hơn, AFTA không làm suy yếu lợi thế cạnh trạnh của ASEAN đối với các đối tác thương mại quan trọng ngoài khối và củng cố mạng lưới sản xuất liên quan đến ASEAN. Giao dịch với các đối tác thương mại bên ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Theo đánh giá gần đây của Ban thư ký ASEAN và Ngân hàng thế giới (2013), Singapore và Brunei đã xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với thương mại nội bộ khối ASEAN. Indonesia, Malaysia và ở cấp độ thấp hơn Philippines và Thái Land đã xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ các quốc gia thành viên khác, ngoài trừ một vài hàng hóa không thuộc qui chế tự do hóa theo Thỏa thuận hàng hóa ASEAN ký kết vào năm 2009. Do vậy, thuế suất trung bình cho thương mại nội bộ khối ASEAN áp dụng cho 6 nền kinh tế lâu đời chỉ ở mức 0.05% vào năm 2012, đây là mức thuế quan khá ưu đãi so với các liên minh hải quan và khu mậu dịch tự do. Các nền kinh tế CLMV đã tiến hành cắt giảm nhiều dòng thuế áp dụng cho thương mại nội bộ khối, mức thuế quan nội bộ giảm từ 7.3% năm 2000 đến 2.1% vào năm 2010-2012.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: