Tạo dựng mối quan hệ từ phẩm chất cá nhân lãnh đạo
Nghiên cứu tổng hợp các mối quan hệ của Kaylene C. Williams, (2013) chỉ ra rằng: “Các mối quan hệ đã được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học và từ nhiều góc độ khác nhau và không có sự đồng thuận trong giải thích và thảo luận về các mối quan hệ (Haugland, 1999). Dưới góc độ cấu trúc các mối quan hệ của lãnh đạo đối với môi trường bên trong gồm mối quan hệ đồng nghiệp, quản lý, cấp trên; mối quan hệ với môi trường bên ngoài gồm khách hàng, cung cấp, phân phối, đối tác, chính quyền, tư vấn được các nghiên cứu đề cập rất nhiều (Cooper et al, 1993; Hakansson et al, 1995; Albert A Vicere, 2001; Marshall Goldsmith, 2002; Loraine Uhlaner et al, 2007; David E Hawkins, 2011). ELG và Johansson (1996) lập luận rằng "một công ty phải phối hợp quản lý các mối quan hệ mạng trực tiếp theo chiều ngang và theo chiều dọc để có được một vị trí mạng tổng thể thuận lợi và ổn định"(trích trong Soren Kock et al, 2006). Bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều nhận định về vai trò lãnh đạo trong các mối quan hệ như: Với các mối quan hệ bên trong, theo Christian Cordes et al, (2006) cho rằng: chế độ hợp tác có thể tạo ra lợi ích cho các công ty điều đó sẽ không khả thi nếu thông qua ký kết hợp đồng, ký kết hợp đồng chỉ mang đến sự tuân thủ của nhân viên, ràng buộc sự thực thi kể cả sự chủ động và nhiệt tình và sẽ khó khăn trong việc thực hiện những mục tiêu phức tạp và các tổ chức được xây dựng bởi tiến hóa văn hóa trong tổ chức, hỗ trợ một chế độ hợp tác tốt hơn. Trong khi đó Raminta Pučėtaitė et al, (2015) cho rằng văn hóa đạo đức của một tổ chức có thể thúc đẩy sự tin tưởng của tổ chức, và mối quan hệ lãnh đạo có tác dụng trung gian trong mối quan hệ này. Pan Jing-zhou et al, (2008), cần thiết để tạo ra các mối quan hệ cấp trên-cấp dưới tốt bằng cách tăng cường truyền thông lẫn nhau và phá vỡ quan liêu, các nhà lãnh đạo là cầu nối và liên kết chấp nối tổ chức với nhân viên và các nhà lãnh đạo sẽ cung cấp sự tin tưởng nhiều hơn và quan tâm đến "người trong nhóm". Đổi lại, họnhận được hỗ trợ và tôn trọng hơn. Hakan Hakansson et al, (1995) sự tin tưởng và sự tự tin, đã được chỉ ra trong một số cuộc nghiên cứu là hiệu quả hơn cho sự phát triển của mối quan hệ hơn là thỏa thuận hợp đồng chính thức. Don Grayson et al, (2006), lãnh đạo “sử dụng các kiến thức, kỹ năng và khả năng của những người theo làm tăng hiệu quả tiềm năng và khả năng thành công của tất cả các bên”. Do vậy, mối quan hệ giữa lãnh đạo và người đi theo tối đa hóa hiệu quả và gặt hái được những lợi ích cho tất cả các bên liên quan trong tổ chức và Gerard Seijts et al, (2015) điều quan trọng của lãnh đạo trong xây dựng mối quan hệ bên trong xuất phát từ Nổ lực, trách nhiệm, hợp tác, con người, khiêm tốn, thái độ ôn hòa, tính toàn vẹn, công bằng, can đảm, tính siêu việt, óc phán đoán, quan trọng đối với sự thành công của cá nhân và tổ chức. Với các mối quan hệ bên ngoài, Soren Kock et al, (2006) cho rằng: khi có nhu cầu hợp tác, người điều hành phải tạo mối quan hệ lâu dài dựa trên lợi ích chung và sự thích nghi để biết những gì các đối tác tương tác có khả năng thực hiện (Kanter 1994). Håkansson và Snehota (1995) sử dụng ba lớp khác nhau để phân tích nội dung của một mạng lưới kinh doanh, gồm người điều hành, các nguồn lực và các hoạt động. Trong đó, người điều hành cần thiết cho việc thực hiện các hoạt động bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên. Soren Kock et al, (2006) vị trí của một người điều hành trong một mạng lưới kinh doanh giúp tiếp cận năng lực cạnh tranh mới và tăng cường các khả năng để thu hút mối quan hệ mới (Gnyawali & Madhavan 2001, McEvily & Zaheer 1999, Powell, Koput & Smith-Doerr 1996). Ingram & Roberts (2000) cho rằng tình hữu nghị giữa các nhà quản lý cạnh tranh dẫn đến cải thiện sự hợp tác và chia sẻ thông tin (trích trong Soren Kock et al, 2006). Gnyawali và Madhavan (2001) cho rằng "hành động có mục đích người điều hành' tham gia vào trong các mối quan hệ chiến lược cụ thể và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến những hành động và kết quả của họ"(trích trong Soren Kock et al, 2006). Theo Soren Kock et al (2006) từ những mối quan hệ đó các nhà quản lý nhận được lợi ích, được xếp thành ba loại khác nhau: hợp tác, giảm thiểu cạnh tranh và thông tin trao đổi. Lợi ích của hợp tác là tiếp cận nguồn lực bên ngoài, một người điều hành có một thái độ mạnh hơn sẽ thu hút các người điều hành khác trong mạng lưới kinh doanh và do đó có thể thiết lập nhiều mối quan hệ. Trong các mối quan hệ có phát sinh liên tục của các khía cạnh khác nhau của hoạt động và một sự thay đổi trong mối quan hệ này sẽ ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong mạng lưới kinh doanh khác. Ngoài ra, là các mối quan hệ cá nhân quan trọng được tạo ra trên cấp độ cá nhân sẽ tiếp tục giảm rủi ro trong kinh doanh cũng như tạo cơ hội nhận các thông tin đáng tin cậy và hiểu biết về thị trường. Emanuala Todeva et al (2005) các công ty hợp tác tăng cường kinh nghiệm hội nhập và chính thức hóa trong quản trị của các mối quan hệ của họ với các tổ chức bên ngoài. Đến mức mà tin tưởng thay thế cho cơ chế kiểm soát chính thức. Như vậy, cả hai mối quan hệ đều cho thấy tầm quan trọng của lãnh đạo trong việc xây dựng mối quan hệ ở việc kết hợp các nguồn lực rõ ràng. Các mối quan hệ là trung tâm trách nhiệm của một nhà lãnh đạo, thể hiện khả năng của các nhà lãnh đạo để thực hiện cam kết hoặc khả năng tạo ra sự tương tác tích cực với những người khác, khi lãnh đạo tạo dựng nhiều mối quan hệ có thể tương tác với nhiều thành viên khác nhau, khả năng gây ảnh hưởng của lãnh đạo cũng mạnh mẽ hơn, nhiều mối quan hệ cũng sẽ làm cho lãnh đạo năng động hơn (Pučėtaitė, R et al, 2015).
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: