Đánh giá tác động của cải cách giáo dục đến việc giảng dạy PBL cho sinh viên PSU QTKD
1. Cải cách giáo dục ở Việt Nam trong những năm qua
Cải cách giáo dục ở Việt Nam là tập hợp của các thay đổi lớn nhưng rời rạc trong hệ thống giáo dục phổ thông và đại học tại Việt Nam tính từ sau năm 1976. Căn cứ trên sửa đổi của Luật Giáo dục, chúng ta đã có ít nhất 03 lần cải cách giáo dục. Lần đầu tiên vào năm 1998, lần thứ hai năm 2005 và gần đây nhất là năm 2009. Cải cách giáo dục ở Việt Nam có thể được hình dung cụ thể qua các điểm nhấn như đổi sách giáo khoa vào năm 2007, phân ban và không phân ban trong giai đoạn 2006-2010[1], mô hình trường học mới thí điểm vào năm 2013-2014[2] và công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể vào tháng 8/2015[3] cùng với nhiều thay đổi trong hình thức thi và tuyển sinh qua từng năm.
Hình 1- Sơ đồ phân luồng trên cơ sở dự thảo giáo dục phổ thông tổng thể 2015
Trong số các sự kiện nói trên, liên quan mật thiết nhất đến việc giảng dạy PBL cho sinh viên PSU QTKD là việc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo nghiên cứu, vận dụng một số phương pháp, hình thức dạy học tiên tiến của thế giới vào các cấp học phổ thông như: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học tìm tòi nghiên cứu, dạy học dự án, phương pháp "bàn tay nặn bột"..., trong đó có mô hình trường học mới (VNEN).
2. Giảng dạy PBL cho sinh viên PSU QTKD
Kể từ khi đại diện sinh viên của ĐH Duy Tân chiến thắng trong cuộc thi CDIO Academy vào năm 2013, CDIO và PBL đã được giới thiệu rộng rãi tại ĐH Duy Tân nói chung và khoa ĐTQT nói riêng. Nhiều đợt giảng viên trong khoa đã được cử đi tập huấn tại trường ĐH Aalborg (Đan Mạch), tham gia viết tham luận hội thảo về PBL tại St. Sebastian (Tây Ban Nha) khi quay về đã có những chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy theo phương pháp PBL cho các giảng viên khác trong tổ bộ môn.
Các môn học dần dần đã có cách tiếp cận giảng dạy tích cực hơn. Mặc dù chưa có một NCKH đánh giá được chính xác hiệu quả của phương pháp mới so với phương pháp sư phạm truyền thống, tuy nhiên, điều dễ nhận ra đó là một luồng sinh khí mới đã được tạo ra, giảm đi cảm giác nhàm chán nơi người dạy và người học.
3. Khó khăn thường gặp
Cải cách giáo dục ở Việt Nam chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề vĩ mô. Tức là pháp luật giáo dục chủ yếu định hướng giải pháp và tiêu chuẩn cho các trường phổ thông ở quy mô lớn, áp dụng đại trà, chứ ít quan tâm đến các vấn đề chi tiết, yêu cầu đầu ra của học sinh không được chú trọng, đặc biệt là kĩ năng mềm và định hướng nghề nghiệp, bỏ qua sự khác biệt giữa các địa phương, dẫn đến sự lãng phí hoặc không hiệu quả khi triển khai thực tế.
Đối với mô hình VNEN, việc áp dụng mô hình trường học mới này chưa thực sự phù hợp với điều kiện của nhiều địa phương nên đã gặp nhiều khó khăn. Một số nơi chưa nhận thức đầy đủ về mô hình và điều kiện áp dụng; cán bộ quản lý và giáo viên chưa được chuẩn bị chu đáo, một bộ phận ngại đổi mới hoặc áp dụng mô hình một cách máy móc; việc triển khai nóng vội, áp dụng ngay cả ở những trường còn khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, sĩ số lớp học đông... dẫn đến việc tổ chức hoạt động giáo dục chưa đạt được hiệu quả mong muốn, gây ra những băn khoăn trong dư luận.
Bảng 1- Thời gian học văn hóa của các khóa sinh viên PSU QTKD
Khóa |
K19 |
K20 |
K21 |
K22 |
Năm sinh |
1995 |
1996 |
1997 |
1998 |
Thời gian học văn hóa |
2001-2013 |
2002-2014 |
2003-2015 |
2004-2016 |
Sinh viên PSU QTKD cũng giống như đại bộ phận sinh viên trong trường chủ yếu đến từ các tỉnh miền Trung, trong đó Quảng Nam Đà nẵng luôn chiếm tỉ lệ cao nhất. Các khóa K19 – K22 của PSU QTKD là đầu ra của quá trình thay đổi sách giáo khoa trong giai đoạn 2000-2015 (sách giáo khoa được thay đổi vào năm 2007). Mặc dù các em đến từ Đà Nẵng hoặc các địa phương lân cận Đà Nẵng có thể đã tiếp cận với những điều mới mẻ trong giáo dục hơn rất nhiều so với các thế hệ học sinh trước, tuy nhiên, mức độ thay đổi là rời rạc, thiếu đồng bộ, nhất quán và có tính hệ thống, bài bàn. Đặc biệt là phương pháp tư duy và giải quyết vấn đề của các em nhìn chung vẫn không khác biệt so với các thế hệ đi trước. Điều này thể hiện khá rõ nét trong quá trình tư vấn tuyển sinh và giảng dạy mà tác giả đã có dịp trực tiếp chứng kiến.
Một điểm đáng chú ý nữa, đó là đối với các em sinh viên PSU QTKD nếu không được gia đình và/hoặc bản thân có định hướng đi du học thì tiếng Anh vẫn còn là rào cản lớn trong quá trình các em tiếp thu kiến thức từ giáo trình của PSU.
4. Thảo luận giải pháp kết nối giữa cải cách giáo dục đến việc giảng dạy PBL
a. Mở rộng và điều chỉnh mô hình trường học mới (VNEN)
Mô hình VNEN là mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản: học sinh được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân; Nội dung học thiết thực, gắn kết với đời sống thực tiễn hàng ngày của HS; Kế hoạch dạy học được bố trí linh hoạt; Môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức tập thể; Tài liệu có tính tương tác cao và là tài liệu hướng dẫn HS tự học; Chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác; Phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng đồng và nhà trường; Tăng quyền chủ động cho GV và nhà trường, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của các cấp quản lý giáo dục địa phương. Đây là phương pháp giảng dạy có nhiều nét giống với PBL.
Mô hình trường học mới (VNEN) là kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, tăng cường tương tác giữa giáo viên và học sinh, tạo bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện. Giáo viên phải tự trau dồi, nâng cao trình độ. Học sinh sẽ không học thụ động mà bắt buộc phải có sự trao đổi, tư duy với giáo viên và các bạn cùng lớp, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với học sinh.
Theo mô hình này, học sinh được tổ chức ngồi học theo nhóm, ngồi quay mặt vào nhau để cùng trao đổi và tự học. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”. Hội đồng này do các em bầu ra và tự đảm nhiệm. Đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động, bổ sung và dần hoàn thiện kỹ năng sống cho học sinh. Đồng thời, xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Thư viện lớp học”.
Tại Đà Nẵng, mô hình VNEN đã được áp dụng thí điểm tại trường tiểu học Hòa Phú, huyện Hòa Vang và một số trường THCS (Hà, 2015), tuy nhiên tại một số trường tiểu học trên địa bàn quận Hải Châu, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, các thầy cô đã bắt đầu áp dụng từng phần mô hình mới này từ năm học 2013-2014. Rõ ràng, với thực tế như trên, rất khó để đánh giá được hiệu quả của quá trình cải cách giáo dục của học sinh các trường này vì học lên các cấp cao hơn, các em không được tiếp tục theo học theo mô hình này nữa. Ngoài ra, tại một số địa phương khác, mô hình giáo dục mới còn phải đối mặt với nhiều thách thức quan trọng khác đến từ các vị phụ huynh học sinh khi nhiều người cho rằng mô hình mới không mang lại hiệu quả tích cực trong học tập cho con em của mình. (Bình, 2016)
b. Nâng cao tính đồng bộ trong cải cách giáo dục
Để cải thiện hiệu quả giảng dạy PBL cho sinh viên PSU QTKD, chất lượng đầu vào của sinh viên cần được cải thiện. Đây là việc không chỉ dành riêng cho các đội ngũ giảng dạy của chương trình PSU mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các trường cấp 3 thường có lượng sinh viên lớn đăng ký vào học tại trường như THPT Phan Châu Trinh, Trần Phú, Nguyễn Hiền, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền etc.
Về lâu dài, việc xem xét áp dụng mô hình trường năng khiếu trong trường đại học như các trường hợp của THPT chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội, hay trường Phổ thông năng khiếu thuộc Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh là các mô hình thiết nghĩ nên được tham khảo. Thực tế cũng đã chứng minh, Đại học FPT, Đại học Thái Bình Dương (APU) cũng đã triển khai mô hình giáo dục theo chiến lược hội nhập dọc ngược chiều với kì vọng tạo ra sự khác biệt trong giáo dục.
5. Kết luận
Cải cách giáo dục ở Việt Nam còn nhiều việc phải làm nhưng đang đi theo hướng tích cực, hướng đến nâng cao chất lượng học cho học sinh sinh viên. Để thực hiện được tốt quá trình cải cách giáo dục ở Việt Nam, các thầy cô giáo các cấp cần được tạo thêm nhiều động lực để nỗ lực tạo ra sự thay đổi. Đây là việc làm khó, phức tạp, đòi hỏi sự chủ động của từng thầy cô giáo thay vì phụ thuộc vào những chính sách của các cơ quan chức năng.
Trần Tuấn Đạt
6. Tài liệu tham khảo
Bình, H. (2016, August 26). Phụ huynh kéo tới trường phản đối mô hình VNEN. Retrieved from VnExpress: http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/phu-huynh-keo-toi-truong-phan-doi-mo-hinh-vnen-3459023.html
Du, X., Graaff, E. d., & Kolmos, A. (2009). Research on PBL Practice in Engineering Education. Rotterdam/Boston/Taipei: Sense Publishers.
Graaff, E. d., & Kolmos, A. (2007). Management of Change - Implementation of Problem-Based and Project-Based Learning in Engineering. Rotterdam/Taipei: Sense Publishers.
Hà, N. (2015, September 17). Hào hứng với cách học mới. Retrieved from Đà Nẵng điện tử: http://www.baodanang.vn/channel/5411/201509/hao-hung-voi-cach-hoc-moi-2441713/
Hoa, P. (2016, September 12). Cải cách giáo dục hay cải cách cha mẹ? Retrieved from Vietnamnet: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/goc-phu-huynh/cai-cach-giao-duc-hay-cai-cach-cha-me-326088.html
T, N. (2013). Đại học Duy Tân-Đại học đầu tiên của Việt Nam giành Cúp luân lưu CDIO 2013. Retrieved from ICT Đà Nẵng: http://ictdanang.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=7443:dai-hoc-duy-tan-dai-hoc-dau-tien-cua-viet-nam-gianh-cup-luan-luu-cdio-2013&catid=79:nghien-cuu-sang-tao&Itemid=61
Triển khai mô hình trường học mới từ năm học 2016-2017. (2016, August 18). Retrieved from Website Bộ Giáo dục và Đào tạo: http://pbc.moet.gov.vn/?page=1.29&view=1398
[1] Năm 2014, chương trình phân ban đã hoàn toàn chấm dứt. Xem them: Lãng phí chương trình phân ban, http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/lang-phi-chuong-trinh-phan-ban-2014120222204462.htm
[2] Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thí điểm mô hình VNEN, là mô hình đã được thử nghiệm ở một số nước cho kết quả tốt, được UNESCO và chuyên gia giáo dục quốc tế khuyến cáo chọn thử nghiệm tại Việt Nam. Kết quả 3 năm thử nghiệm cho thấy mô hình có nhiều điểm tích cực, tạo được môi trường giáo dục thân thiện, dân chủ trong nhà trường và lớp học; học sinh tích cực, tự lực, tự quản trong học tập; mối liên hệ giữa nhà trường với cha mẹ học sinh và cộng đồng được tăng cường.
[3] Xem thêm: Công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/cong-bo-du-thao-chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-tong-the-254711.html
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: