TS Đàm Quang Minh cho rằng mất cán cân cung cầu khiến sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm luôn thuộc top đầu về thất nghiệp, gây lãng phí lớn cho xã hội.
Câu chuyện 3 điểm/môn đỗ ngành sư phạm trở nên "nóng" hơn trong những ngày qua khi Bộ GD&ĐT làm việc với lãnh đạo các trường sư phạm trên cả nước.
Ngày 17/8, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã làm việc với Bộ GD&ĐT về vấn đề này.
“Các đồng chí phải xem lại ngay chỉ tiêu các trường sư phạm. Đào tạo sinh viên ra trường mà không xin được việc sẽ như thế nào? Không thể nói cái gì thiếu thì đào tạo còn thừa thì không quan tâm. Đây là trách nhiệm của Bộ GD&ĐT”, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói.
Chia sẻ quan điểm này, TS Đàm Quang Minh có bài viết đăng trên Zing.vn, phân tích sâu hơn việc đổi mới đào tạo sư phạm dưới góc nhìn quy luật cung cầu. Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả.
Cung cầu trong giáo dục phổ thông
Theo báo cáo điều tra lao động việc làm quý I của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, 460.000 lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ ngành nghề chưa có việc làm cao nhất là Kinh doanh và Quản lý (27,9%), Công nghệ Kỹ thuật (13,6%), Khoa học Giáo dục và Đào tạo giáo viên (13,5%). Số lao động chưa có việc làm ngành giáo dục và sư phạm khoảng 62.000 người.
Những năm qua, ngành sư phạm cũng nổi lên nhiều sự kiện liên quan việc làm của giáo viên. Câu chuyện xếp hàng chờ biên chế hoặc buộc thôi việc hàng loạt giáo viên hợp đồng đã tạo ra những tranh cãi lớn về đảm bảo công ăn việc làm cho giáo viên.
Điển hình nhất là vụ 376 giáo viên tại Vĩnh Lộc và sau đó là 647 giáo viên khác tại huyện Yên Định (cùng thuộc tỉnh Thanh Hóa) bị buộc thôi việc. Các tỉnh khác như Bắc Ninh, Quảng Nam cũng xảy ra sự kiện tương tự.
Xét từ nguyên nhân đầu vào có thể thấy thực trạng này có nguồn gốc từ giảm tỷ lệ sinh và giảm số lượng học sinh trong những năm qua. Tổng số học sinh tiểu học năm học 2004-2005 là 7,7 triệu, giảm nhanh xuống còn 6,7 triệu năm 2008-2009, sau đó tăng dần lại 7,8 triệu trong năm 2015-2016.
Học sinh THCS năm 2004-2005 là 6,6 triệu, giảm xuống còn 4,9 triệu năm 2012-2013 và tăng lại thành 5,1 triệu năm 2015-2016, giảm 26%. Tương tự, học sinh THPT cũng giảm từ 3,1 triệu năm 2007-2008 xuống còn 2,4 triệu năm 2015-2016, giảm 23%.
Nếu như năm 2007, hơn một triệu học sinh dự thi tốt nghiệp THPT thì 10 năm sau, số thí sinh dự thi chỉ còn 866.000, giảm 20%. Trong khi đó, số giáo viên dạy THCS năm 2005 là 302.000, đến năm 2015 tăng nhẹ thành 313.000. Giáo viên dạy THPT tăng từ 106.100 lên 150.900, mức tăng 42% trong khi số học sinh giảm 20%.
Nếu xét từng tỉnh, sự việc còn nghiêm trọng hơn do 10 năm qua, quá trình di dân đã đẩy phần lớn dân số trẻ ra các thành phố lớn, nơi có điều kiện kinh tế tốt. Trong khi đó, các giáo viên ít di chuyển theo.
Nếu như số học sinh theo cấp lớp của các tỉnh thành như Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế chỉ giảm nhẹ hoặc thậm chí tăng ở cấp tiểu học, thì các tỉnh miền Trung từ Thanh Hóa đến Quảng Trị ghi nhận số học sinh giảm mạnh, đặc biệt ở bậc THCS.
Ở bậc học này, Nghệ An - Hà Tĩnh giảm từ 442.000 năm 2005 xuống còn 249.000 học sinh năm 2015 (giảm 43,7%). Quảng Bình - Quảng Trị giảm từ 148.000 xuống còn 97.000 học sinh (giảm 34,4%). Nhiều nhất là Thanh Hóa giảm từ 346.000 xuống còn 185.600 học sinh cấp THCS sau 10 năm (giảm 46,4%).
Với lượng giảm lớn như vậy, bắt buộc các trường phải giảm số lượng lớn giáo viên và gây ra nhiều vấn đề trong xã hội.
Trong bối cảnh đó, đương nhiên các thí sinh đại học sẽ kém mặn mà với các trường sư phạm vì nỗi lo đầu ra. Cộng thêm những bất cập về các môn học ít giờ giảng dạy khiến thí sinh chọn học sư phạm trong một số chuyên ngành càng khó khăn hơn.
Trong khi đó, chỉ tiêu đào tạo ngành sư phạm chưa được cân nhắc một cách đầy đủ, dẫn tới việc thiếu nguồn thí sinh đầu vào và điểm chuẩn thấp ở ngành đào tạo đòi hỏi chất lượng cao này. Đó là diễn biến tất yếu theo quy luật cung cầu.
Tự chủ sư phạm và phát triển đa dạng theo quy luật cung cầu
Sư phạm rõ ràng là ngành đào tạo đặc thù do mấy nguyên nhân. Thứ nhất, ngành này ảnh hưởng lớn đến xã hội và có tác động mạnh mẽ dư luận. Thứ hai, sinh viên ngành sư phạm rất khó chuyển đổi ngành nghề sau khi tốt nghiệp, khác với lĩnh vực khác.
Trong khi đó, sự phát triển của thị trường giáo dục đang rất mạnh mẽ. Ví dụ ở lĩnh vực sư phạm mầm non, bên cạnh những chuyên môn thông thường mà các trường sư phạm đào tạo, thị trường còn cần nhiều giáo viên có những kỹ năng mới, hiện đại như chứng chỉ Montessori, Steiner hay Tiếng Anh mầm non.
Mô hình đào tạo sư phạm theo đó cần có sự linh hoạt hơn. Việt Nam có thể áp dụng mô hình một số quốc gia tiên tiến để tối ưu hoá và biến chuyển linh hoạt đội ngũ lao động. Giáo viên có thể đào tạo từ 2 nguồn: Các trường sư phạm và từ chính trường phổ thông theo dạng chứng chỉ và thực hành.
Trường phổ thông có đội ngũ nhân sự tốt, gồm tiến sĩ, thạc sĩ giáo dục, có thể đào tạo giáo viên thực hành thông qua mô hình trường phổ thông thực hành.
Như vậy, để trở thành giáo viên, người học có thể chọn một trong hai cách. Một là học ngay tại các trường phổ thông chương trình cơ bản 2 năm rồi làm trợ giảng thêm 2 năm. Hai là đào tạo chuyên sâu tại trường đại học giáo dục 4 năm.
Mô hình trường sư phạm ngày nay cần được chuyển thành đại học giáo dục với nhiệm vụ chính đào tạo bậc thạc sĩ và tiến sĩ về giáo dục. Một cơ sở đào tạo phổ thông cũng cần được dẫn dắt bởi những chuyên gia giáo dục thực thụ hơn là giáo viên đơn thuần. Đây chính là mô hình thành công của các trường phổ thông của Phần Lan.
Bên cạnh đó, các chuyên ngành chuyên sâu của trường phổ thông cần được mở rộng hơn. Hiện nay, các nhóm ngành được chia thành rất nhỏ, như Sư phạm Sinh học, Sư phạm Địa lý. Trong khi đó, các môn học này có rất ít giờ dạy, giáo viên thường xuyên thiếu giờ và không được coi trọng.
Bậc phổ thông chỉ cần chia thành Sư phạm Khoa học tự nhiên và Sư phạm Khoa học xã hội. Một giáo viên cơ bản cần dạy được loạt môn theo chủ đề, từ đó cũng thuận lợi hơn cho việc học môn tích hợp sau này. Đây cũng là xu thế bắt buộc thực hiện trong thời gian tới.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên chấp nhận cử nhân tốt nghiệp ngành khác chuyển sang làm giáo viên sau khi thực hiện 2 năm trợ giảng thực hành. Ví dụ, sinh viên ngành Toán - Tin hoàn toàn có thể dạy chuyên môn này nếu được bổ sung kỹ năng sư phạm.
Trước đây, chứng chỉ sư phạm được thực hiện khá phổ biến nhưng sau đó bị hạn chế nên không khuyến khích được người có chuyên môn sâu chuyển sang làm giáo viên.
Với quy mô đào tạo 150.000 cử nhân sư phạm hiện nay, rõ ràng là nguy cơ thất nghiệp ngành sư phạm thể hiện rõ việc cung nhân lực thừa nghiêm trọng trong bối cảnh lượng học sinh liên tiếp sụt giảm trong 10 năm qua.
Mất cán cân cung cầu khiến sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm luôn thuộc top đầu về thất nghiệp và gây lãng phí lớn cho xã hội. Không những thế, thí sinh không còn mặn mà với ngành sư phạm sẽ dẫn tới hệ luỵ đào tạo giáo viên yếu kém.
Một số chuyên gia cho rằng có thể áp dụng theo phương thức của ngành an ninh và quân đội cho chỉ tiêu sư phạm. Tuy nhiên, thực tế không thể tổ chức phân công công tác cho các trường phổ thông hay mầm non tư thục.
Điều này có thể thực hiện trong ngắn hạn nhưng dài hạn chắc chắn sẽ bộc lộ nhiều bất cập do không tuân theo nguyên tắc của thị trường.
Nên chăng, chúng ta thực sự cần một công cuộc cải cách thực thụ cho ngành sư phạm.
(ST)