Vai trò của kế toán trong doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh
Bản chất của doanh nghiệp và kế toán
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, theo đó những nguồn lực cơ bản (những yếu tố đầu vào) như nguyên vật liệu, nhân công được tập hợp, chế biến và xử lý để tạo ra những sản phẩm đầu ra là hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho khách hàng.
Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là chênh lệch giữa giá bán hàng hóa và dịch vụ với chi phí đầu vào đã bỏ ra để sản xuất hoặc để tạo ra hàng hóa và dịch vụ đó. Nội dung môn học Nguyên lý kế toán của chúng ta tập trung vào kế toán cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều khái niệm và nguyên tắc kế toán doanh nghiệp cũng được áp dụng chung cho các tổ chức phi lợi nhuận như bệnh viện, trường học và những tổ chức phí chính phủ...
Các loại hình doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp dịch vụ: cung cấp dịch vụ (phòng mạch bác sĩ, văn phòng luật sư, các hãng hàng không...)
- Doanh nghiệp thương mại: kinh doanh từ việc mua hàng hóa của các doanh nghiệp khác để bán lại cho khách hàng (CoopMart, Big C, Wal-Mart, Amazon.com, Best Buy, Target...)
- Doanh nghiệp sản xuất: sản xuất sản phẩm từ các yếu tố đầu vào để bán cho khách hàng (Ford, Microsoft, GE...)
Vai trò của Kế toán trong doanh nghiệp
Kế toáncó thể được định nghĩa là một hệ thống thông tin cung cấp cho người sử dụng những báo cáo về các hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp. Kế toán được xem như là ngôn ngữ kinh doanh bởi vì kế toán là một phương tiện chuyển tải những thông tin tài chính của doanh nghiệp đến người sử dụng.
Với vai trò là ngôn ngữ kinh doanh, kế toán có những chức năng sau:
- Cung cấp thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
- Ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Lập những báo cáo cần thiết cho việc hoạch định chính sách và chiến lược của doanh nghiệp.
Tầm quan trọng của kế toán:
- Các nhà quản lý dựa vào những thông tin kế toán để ra quyết định lập kế hoạch và kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp.
- Các cá nhân và tổ chức – nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp, khách hàng, chính phủ và công chúng – là những người đầu tư, cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoặc có những lợi ích khác trong doanh nghiệp sẽ dựa vào những thông tin kế toán cung cấp để đánh giá tình trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh để từ đó đưa ra quyết định về việc góp vốn, cho vay, đánh giá về các nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp…
Quy trình kế toán cung cấp thông tin đến người sử dụng:
1. Xác định đối tượng sử dụng thông tin kế toán.
2. Đánh giá nhu cầu thông tin của người sử dụng.
3. Thiết kế hệ thống thông tin kế toán để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.
4. Ghi chép các nghiệp vụ kinh tế của doanh nghiệp.
5. Lập các báo cáo kế toán cung cấp thông tin cho người sử dụng.
Kế toán quản trị và Kế toán tài chính
Kế toán quản trị: cung cấp các thông tin kế toán phù hợp và kịp thời trong nội bộ doanh nghiệp. Đối tượng phục vụ của kế toán quản trị là các nhà quản lý và nhân viên, giúp họ có thể đưa ra những quyết định về quản lý và điều hành doanh nghiệp. Những thông tin này thường nhạy cảm và bảo mật nên không được công bố ra bên ngoài. Ví dụ: thông tin về khách hàng, chi phí, kế hoạch mở rộng doanh nghiệp.
Kế toán tài chính: cung cấp các thông tin kế toán phù hợp và kịp thời cho những cá nhân, tổ chức bên ngoài doanh nghiệp như khách hàng, các tổ chức tín dụng, các cơ quan của chính phủ để giúp họ đưa ra những quyết định về việc cấp tín dụng, đầu tư … Dù những cá nhân, tổ chức này khác nhau nhưng những báo cáo tài chính được thiết kế để tất cả các đối tượng này đều có thể dùng chung và đáp ứng được những nhu cầu về thông tin của họ. Do đó, chúng được gọi là những báo cáo tài chính có mục đích chung (geneal-purpose financial statements).
Cả hai loại kế toán này đều dựa trên cùng một nguồn dữ liệu chung của doanh nghiệp, thậm chí đội ngũ xử lý thông tin cũng là một song do mục tiêu khác nhau nên có nhiều điểm khác nhau. Cụ thể như sau: Kế toán quản trị chú trọng tương lai, kế toán tài chính đi sâu vào quá khứ. Kế toán tài chính nhấn mạnh tính chính xác, khả năng xác minh, kế toán quản trị chú trọng đến sự kịp thời, không cần thật chính xác, thậm chí nhiều ước định. Kế toán quản trị cũng nhấn mạnh đến việc lập kế hoạch và kiểm soát nội bộ hơn. Kế toán tài chính buộc phải tuân theo GAAP, kế toán quản trị thì không. Kế toán quản trị được hình thành song song với kế toán tài chính nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho nhà quản lý.
Vai trò của đạo đức trong kế toán và và đạo đức trong kinh doanh
Đạo đức là những nguyên tắc hướng dẫn hành vi của các cá nhân trong tổ chức.
- Đó chính là sự trung thực và liêm chính.
- Đòi hỏi sự tuân thủ trong mọi tình huống, ngay cả trong những tình huống tưởng chừng vô hại.
Các doanh nghiệp thường xây dựng những quy tắc ứng xử quy định trách nhiệm hoặc quy tắc hành xử phù hợp bao gồm quy tắc đạo đức và danh dự.
Nếu doanh nghiệp và người lao động không tuân thủ các nguyên tắc đạo đức thì doanh nghiệp và người lao động có thể bị xử lý theo quy định pháp luật như bị phạt tiền, sa thải; bị mất uy tín và thậm chí phá sản. Exhibit 2 (trang 5) trình bày một số trường hợp gian lận trong kế toán hoặc kinh doanh điển hình trong thời gian qua.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: