Thực thể kinh doanh (Business Entity Concept) trong kế toán Mỹ
Trên góc độ kế toán, mỗi doanh nghiệp được thừa nhận và đối xử như những tổ chức độc lập với chủ sở hữu và các doanh nghiệp khác. Quan điểm kế toán này được gọi là khái niệm thực thể kinh doanh. Các doanh nghiệp được nhìn nhận và đối xử như những tổ chức độc lập vì mục đích của kế toán là ghi chép lại quá trình kinh doanh và định kỳ báo cáo tình trạng tài chính và quá trình sinh lợi của từng doanh nghiệp riêng biệt. Do vậy, số liệu ghi chép và báo cáo của một doanh nghiệp không được bao gồm bất kỳ quá trình kinh doanh hoặc tài sản nào của doanh nghiệp khác, hoặc tài sản cá nhân và hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp đó vì nếu chúng bao gồm một yếu tố nào cũng sẽ làm sai lệch báo cáo về tình trạng tài chính và quá trình kinh doanh của chính doanh nghiệp. Các cách tổ chức doanh nghiệp:
Kế toán được áp dụng trong tất cả các tổ chức như doanh nghiệp, trường học, nhà thờ… Tuy nhiên, trong giáo trình này chỉ đề cập đến việc áp dụng kế toán trong doanh nghiệp theo các loại hình doanh nghiệp tư nhân một thành viên, công ty hợp danh, công ty cổ phần vàcông ty TNHH.
Doanh nghiệp tư nhân một thành viên (single proprietorship):
Nếu doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu thì sẽ được gọi là doanh nghiệp một thành viên. Các cửa hàng bán lẻ và các công ty dịch vụ thường tổ chức theo loại hình này. Khi thành lập doanh nghiệp một thành viên, chủ sở hữu không phải tuân thủ các yêu cầu nào theo luật định. Loại hình doanh nghiệp một thành viên chiếm đa số trong các tổ chức doanh nghiệp.
Khithực hiện công tác kế toán đối với doanh nghiệp một thành viên, khái niệm thực thể kinh doanh được áp dụng và doanh nghiệp được xem như một tổ chức kinh tế độc lập. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp vay nợ thì sẽ không có sự phân biệt tài sản của doanh nghiệp với tài sản cá nhân của chủ sở hữu. Chủ sở hữu là người duy nhất chịu trách nhiệm về số nợ của doanh nghiệp. Do đó, nếu tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp sẽ bị sử dụng để thanh toán nợ kinh doanh.
Ưu điểm:
- Việc tổ chức hoạt động kinh doanh đơn giản vì chỉ có một cá nhân ra quyết định.
- Bị đánh thuế một lần, doanh nghiệp một thành viên không phải đóng thuế thu nhập, doanh nghiệp chuyển lãi qua tờ khai thu nhập cá nhân của chủ doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp đóng thuế thu nhập cá nhân dựa trên lợi nhuận của doanh nghiệp của mình.
- Ít quy định điều chỉnh.
Nhược điểm:
- Khó huy động vốn.
- Doanh nghiệp có thể bị tê liệt hoặc chấm dứt nếu chủ sở hữu bị bệnh, và không tồn tại nếu chủ sở hữu mất.
Công ty hợp danh (Partnership):
Một doanh nghiệp có từ hai chủ sở hữu trở lên được gọi là công ty hợp danh. Giống như trường hợp doanh nghiệp một thành viên, khi thành lập, các chủ sở hữu không phải thỏa mãn những yêu cầu đặc biệt theo luật định. Điều yêu cầu duy nhất là tất cả các chủ sở hữu phải tiến hành ký kết vào bản thỏa ước thành lập doanh nghiệp dưới hình thức công ty hợp doanh. Bản thỏa ước chính là hợp đồng và để tránh những bất đồng sau này, hợp đồng phải được lập dưới dạng văn bản.
Đốivới công tác kế toán thì doanh nghiệp được thành lập theo loại hình công ty hợp danh được xem như một tổ chức kinh tế độc lập. Tuy nhiên, giống như các doanh nghiệp một thành viên, chủ sở hữu của công ty hợp doanh phải có trách nhiệm đối với công nợ của công ty, và khi công ty không thanh toán nổi công nợ thì tài sản cá nhân của các chủ sở hữu sẽ bị thu hồi để thanh toán cho công nợ của công ty.
Ưu điểm:
- Thủ tục thành lập đơn giản …(chỉ cần có văn bản thỏa ước), Kết hợp được lợi thế của từng thành viên.
- Bị đánh thuế một lần, hàng năm công ty hợp doanh phải báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, các khoản lãi lỗ… Tuy nhiên công ty không phải đóng thuế thu nhập, công ty chuyển lãi, lỗ qua tờ khai thu nhập cá nhân của các chủ doanh nghiệp. Cá nhân từng chủ doanh nghiệp sẽ đóng thuế cho phần lợi nhuận được chia.
- Ít các quy định chi phối.
Nhược điểm:
- Cá nhân mỗi chủ doanh nghiệp phải làm việc với các thành viên khác.
- Rủi ro tài sản của chủ doanh nghiệp khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
- Doanh nghiệp chấm dứt hoạt động khi có thành viên không muốn tiếp tục thỏa ước hoặc khi thành viên qua đời.
Công ty cổ phần (Corporation):
Công tycổ phần được thành lập theo luật của chính quyền Tiểu bang hoặc Liên bang và được xem làm một tổ chức kinh tế độc lập về mặt pháp lý, khác với hình thức doanh nghiệp một thành viên hoặc công ty hợp danh. Các chủ sở hữu của công ty cổ phần được gọi là cổ đông (stockholder hoặc shareholder). Quyền sở hữu vốn của công ty cổ phần được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần (stock). Thí dụ, một công ty phát hành 1000 cổ phần có nghĩa là vốn của công ty được chia thành 1000 đơn vị. Một cổ đông sở hữu 500 cổ phần có nghĩa là cổ đông đó có 50% vốn trong công ty. Những cổ phần này có thể được bán hoặc chuyển nhượng từ cổ đông này sang cổ đông khác mà không ảnh hưởng đến hoạt động của công ty.
Đặcđiểm cơ bản nhất của một công ty cổ phần là công ty được xem như là một tổ chức độc lập về mặt pháp lý. Đặc điểm này làm cho công ty cổ phần phải có trách nhiệm với các hành động, công nợ của nó. Đặc điểm này cũng làm cho công ty có thể mua, bán, sở hữu tài sản, ký kết hợp đồng dưới tên gọi của công ty. Hay nói vắn tắt, với tư cách là một tổ chức độc lập về mặt pháp lý, công ty được phép hành động như một thành phần có đầy đủ tư cách pháp nhân, có toàn quyền trong nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, khác với con người, công ty phải hành động thông qua các đại biểu.
Các sáng lập viên của một công ty và những cá nhân mua cổ phần của công ty trở thành cổ đông. Các cổ đông họp và bầu ra Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị sẽ họp để bầu ra hoặc chỉ định một Chủ tịch Hội đồnng quản trị và các thành viên, những người này có trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nội dung về nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, chi trả cổ tức sẽ được bàn chi tiết trong chương 11.
Ưu điểm:
- Trách nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn ở số tiền đầu tư của họ.
- Công ty cổ phần có thể tồn tại ổn định và lâu bền không phụ thuộc vào việc rút vốn hoặc sức khỏe của nhà đầu tư.
- Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả những yếu tố trên cộng lại sẽ giúp cho nhà đầu tư niềm tin có thể đầu tư mà không sợ gây nguy hiểm cho những tài sản cá nhân khác và có sự đảm bảo trong một chừng mực nào đó giá trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi năm. Điều này đã tạo khả năng cho hầu hết các công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng.
- Được chuyển nhượng quyền sở hữu: Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được chuyển nhượng dễ dàng, vì vậy, các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt.
Nhược điểm:
- Công ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo chặt chẽ.
- Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan trọng, những thông tin này có thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác.
- Phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến công việc của công ty. Sự quan tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt chứ không phải thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân mình.
- Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu nhập cá nhân của từng cổ đông.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (Limited Liability Company (LLC)):
Công ty TNHHlà một hình thức tổ chức doanh nghiệp linh hoạt vì kết hợp những yếu tố của một công ty hợp danh với một công ty cổ phần. Đó là một tổ chức pháp lý theo đó chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn đầu tư (giống hình thức công ty cổ phần), và được hưởng chính sách đánh thuế một lần (giống công ty hợp danh).
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: