Mức cung tiền
* Khái niệm: cung tiền tệ là tổng giá trị của các phương tiện thanh toán
* Thành phần mức cung tiền tệ
· M1:
Bao gồm một số tài sản như sau: thứ nhất là tiền mặt, (tiền mặt trong lưu thông). Ví dụ minh họa: ở Việt nam tiền mặt trong lưu thông bao gồm VND, một số ngoại tệ mạnh USD, EUR...Thứ hai là tiền gửi không kỳ hạn: tức là người gửi tiền có thể rút hoặc gửi bất cứ lúc nào (có thể dùng tài khoản này để thanh toán, phát hành séc, lập lệnh chi). Đối với ngân hàng, nếu chủ tài khoản yêu cầu thực hiện lệnh chi trả là ngân hàng phải sẵn sàng đáp ứng -> ở Việt nam hay các nước trên thế giới tiền gửi không kỳ hạn cũng được coi như tiền mặt.
· M2:M1 +
+ (1) tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi có kỳ hạn): chủ tài khoản chỉ được rút ra một phần hoặc toàn bộ vào một thời điểm nhất định.
So sánh tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn: cho thấy tính thanh khoản của hai loại tài sản này là khác nhau, người gửi tiền phải trả chi phí tài chính hoặc chi phí thời gian cho tiền gửi tiết kiệm trong trường hợp rút tiền trước hạn -> tính thanh khoản của tài khoản tiết kiệm là thấp hơn tài khoản không kỳ hạn.
+ (2) hợp đồng tín dụng cực ngắn hạn (tiếng anh: repurched overnight agreements).
Ví dụ minh họa: một doanh nghiệp (DN) hay một ngân hàng (NH) rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán -> lúc này luật pháp các nước trong nền kinh tế thị trường yêu cầu DN/NH phải có sự lựa chọn: Tìm mọi cách thực hiện thanh toán hoặc tuyên bố phá sản -> để tránh tình trạng phá sản, một trong những cách họ lựa chọn là tham gia vào hợp đồng mua lại qua đêm. Giả sử NHA phải thanh toán tiền cho khách hàng nhưng NHA không đủ tiền để thanh toán, NHA lập tức nhờ NHB giúp đỡ, NHB đồng ý cho vay mặc dù là cạnh tranh với NHA (lý do: vì các NH nếu không giúp đỡ thì ngay lập tức sẽ bị xảy ra tình huống phá sản hàng loạt). Tuy nhiên, thực tế cho thấy khi một NH đã rơi vào tình trạng phá sản thì chắc gì trong tương lai không bị phá sản tiếp, như vậy khoản cho vay này rất rủi ro và để đảm bảo NHA phải hoàn trả nợ cho NHB là NHA phải mang tất cả những tài sản đến cầm cố tại NHB. Tài sản mà NHA có thể mang đến là chứng khoán (cổ phiếu), các loại giấy tờ có giá và NHB yêu cầu NHA phải ký giấy mua lại chính những tài sản này vào ngày hôm sau (tối đa 24h) -> Như vậy bản chất đây là nghiệp vụ tín dụng cực ngắn hạn.
+ (3) quỹ mua chung (quỹ mua chung trên thị trường tiền tệ - thị trường với thời hạn chuyển giao vốn dưới một năm (money market mutual funds, viết tắt MMMF). Một số học giả Việt nam dịch là quỹ tương hỗ.
Ví dụ minh họa: hình thức chơi họ, hụi ở Việt nam được mô tả như sau: ông A, bà B, C, D....đầu tiên là trong họ với nhau, sau này phát triển là ngoài họ nhưng dù sao họ cũng là những người thân thiết với nhau, hiểu nhau, mỗi ngày góp tiền để thành một số tiền để sau một thời gian bốc họ. Người được nhận trước thường là những người mà gia đình có việc: ma chay, cưới hỏi... (tất cả các nhu cầu cần tài chính). Quỹ tương hỗ: không có lãi suất, chỉ có tác dụng gom tiền nhàn rỗi để đáp ứng kịp thời cho những nhu cầu chi tiêu ngay khi cần thiết. ở nước ngoài cũng có quỹ tương hỗ gọi là Friend, tuy nhiên bản chất hoàn toàn khác -> phân tích ví dụ như sau: Tại thị trường mỹ năm 1997 có thông tin: nếu có tiền gửi vào ngân hàng thì hưởng lãi suất 6.5%/năm, nếu đầu tư vào Wallstreet (WS) thì sẽ có lợi suất kỳ vọng 25%/ năm và với giả thiết không có rủi ro. Vậy nếu có tiền thì bạn sẽ đầu tư vào đâu? Với một số thông tin bổ sung: với việc đầu tư vào WS thì bạn phải trả vào đây là hai khoản: Fees: 20$ cố định không phụ thuộc vào mua 1 chứng khoán hay mua một lô 1.000 hay một lố 1.000.000. Đặc điểm của chứng khoán là bạn phải mua qua môi giới có thể là công ty môi giới chính thức hoặc người môi giới tự do (gọi chung là Broker) và do đó phải trả một khoản hoa hồng phí - commission: khoản này phụ thuộc vào tỷ suất lợi đạt được. Ví dụ: 10% - trả 1% ; 5%-0.1%. Như vậy, nếu bạn có 100 $ tiền tạm thời nhàn rỗi thì sẽ đầu tư vào NH chứ không WS. Nhưng nếu mỗi bạn không có đủ 100$ mà muốn có tỷ suất lợi tức là gần 25% thì chúng ta phải tập hợp n người có 100$.
Tiền gửi quỹ mua chung đều có thể được coi là phương tiện thanh toán. ở Mỹ, Nhật, Châu âu quỹ mua chung rất phát triển, những nước như chúng ta hiện nay mới chỉ ở giai đoạn đầu của việc phát triển thị trường chứng khoán nên quỹ mua chung là chưa phát triển.
+ (4) Riêng ở Mỹ còn có khái niệm đồng đô la châu âu (european dollard)
Đồng đô la Châu Âu là khái niệm mang tính lịch sử. Vào năm 1944, năm chuẩn bị kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai tại ngôi làng Bretton Wood ở Mỹ người ta đã triệu tập hội nghị (nhiều người gọi là hội nghị Bretton Wood, một số gọi là hội nghị IMF). Tại hội nghị này người ta thành lập quỹ tiền tệ quốc tế IMF, bàn đến nhiều nội dung nhưng trong đó người Mỹ công bố một tỷ giá cố định giữa vàng và USD là 35$=1ounce vàng và Fed: quỹ dự trữ liên bang của Mỹ cam kết nếu bạn có 35$ thì bạn sẽ có 1ounce vàng và ngược lại thành viên của những nước tham gia IMF đều phải chấp nhận và cam kết thực hiện chính sách đồng USD và nếu ở nước này đồng USD bị thay đổi cộng trừ 1% thì Chính phủ các nước đó phải có chính sách can thiệp. Như vậy, nếu tại nước đó đồng USD bị mất giá 1% thì Chính phủ phải tung vàng ra nhằm giữ giá đồng USD và ngược lại, làm sao cho biên độ dao động không quá cộng trừ 1% - đây là cam kết của những nước tham gia IMF. Do đó, đồng USD có uy tín lớn và tại hội nghị người ta thành lập IRDB (ngân hàng tái thiết và phát triển thế giới); 1956:IDA (hiệp hội phát triển thế giới); IFC (công ty tài chính quốc tế) và sau này gọi là WB (worldbank group), ngân hàng tái thiết phát triển thế giới là kênh để đem tiền tái thiết lại thế giới và nơi phải tái thiết nhiều nhất đó là châu âu – châu âu tràn ngập USD - đồng đô la châu âu (không thuộc tài sản của Mỹ, quyền sở hữu của Mỹ).
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: