XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Hội nhập quốc tế chính là cơ hội, song cũng là những thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp thiếu nguồn lực và kỹ năng cần thiết để thay đổi. Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác nước ta đã ngày càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam [5].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn 2000 - 2015, sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam đã thể hiện hai mặt khác nhau. Nếu những năm trong giai đoạn 2000 - 2005 và giai đoạn 2006 - 2010, sự phát triển khá mạnh mẽ của doanh nghiệp, các chỉsố phản ánh tốc độ tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động, tổng tài sản và doanh thu đạt mức khá cao thì đến giai đoạn 2011 - 2015, tốc độtăng của các chỉ tiêu này đã giảm mạnh, cho thấy sự khó khăn của doanh nghiệp trong 5 năm gần đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng số lượngdoanh nghiệp, lao động và nguồn vốn và doanh thu năm 2015 đã tăng cao hơn so với các năm 2012- 2014. Xu hướng phát triển này của khu vực doanh nghiệp VN cũng tương tự như xu hướng thay đổi của nền kinh tế Việt Nam (tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 5,91%, thấp hơn mức 7,01%/năm của giai đoạn 2006 - 2010 và 7,5%/nămcủa giai đoạn 2001 - 2005. Hơn thế nữa, sự phục hồi kinh tế ngày càng rõ nét kể từ năm 2013, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục tiêu đềra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả giai đoạn 2011-2015 [1][4]). Điều này một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của khu vực doanh nghiệp trong sự tăng trưởng kinh tế của cả nước. Hay nói cách khác các nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi của kinh tế Việt Nam cũng sẽ tác động mạnh mẽ đến khu vực doanh nghiệp. Trong đó, có thể thấy một số nguyên nhân chủyếu như sau: giai đoạn 2006 - 2010 tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, năm 2007 lên đến gần 54%. Tuy nhiên trước những biến động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và chính sách ưu tiên ổn định vĩ mô, tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 - 2013 ở mức thấp và bắt đầu tăng từ năm 2014 với mức 18% năm 2015. Bên cạnh đó, mức lạm phát năm 2008 (22,97%) và năm 2011 (18,58%) cho thấy những bất ổn đỉnh điểm của nền kinh tế trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động đến kinh tế Việt Nam và khu vực doanh nghiệp [4]). Trong giai đoạn 2000 - 2015; tốc độ tăng trưởngbình quân tổng nguồn vốn (21,76%/năm) cao hơn tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp (15,81%/năm) cho thấy sự phát triển về quy mô vốn của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Ngược lại, tốc độ tăng trưởng nguồn lao động của doanh nghiệp lại thấp hơn tốc độ tăng trưởng của vốn (8,4%/năm và 21,37%) cho thấy doanh nghiệp đang phát triển dựa nhiều vào tăng trưởng nguồn vốn hơn là tăng trưởng lao động. Nhìn chung năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu nhỏ và vừa, chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp, phát triển chủ yếu dựa vào vốn và lao động, cùng công nghệ lạc hậu.
Về hình thức sở hữu, các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng về số lượng và tỷ trọng. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đang tự chủ động tái cấu trúc để duy trì và tăng trưởng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục khẳng định vai trò trong hoạt động xuất nhập khẩu (cùng với việc thu hút nhiều vốn FDI vào VN năm 2015 đã tăng khoảng 4 lần so với năm 2006; trong đó mức vốn FDI trên 70 tỷ USD năm 2008 là mức cao nhất trước hiệu ứng VN gia nhập WTO, khối DN này đang chiếm tỷ trọng trên 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam [4]) thì khối doanh nghiệp nhà nước được đặc biệt chú ý thực hiện cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước của chính phủ(giai đoạn 2011- 2015 đã sắp xếp được 588doanh nghiệp,trong đócổ phần hóa được 508 doanh nghiệp).
Kết quả này cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam cũng như quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp và các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh hỗ trợdoanh nghiệp trong thời gian qua của Chính phủ đã đi đúng hướng và đang dần phát huy tác dụng. Trong đó, đặc biệt là sự thừa nhận về mặt pháp lý chế độ sở hữu tư nhân,cơ cấu lại nền kinh tế với nhiều thành phần cùng phát triển bình đẳng, thực hiện sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển dưới nhiều hình thức, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích liên doanh liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian đến để tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế có một số kiến nghị sau:
*Về phía Nhà nước:
Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện và môi trườngthuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
Đồng bộ, nhất quán các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp.
Khuyến khích, hỗ trợ DN đầu tư phát triển khoa học công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cho DN.
* Về phía doanh nghiệp:
Đê góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài DN nhà nước; các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nênchủ động tái cơ cấu hoạt động doanh nghiệp mình.
Trước những thay đổi của nền kinh tế, các doanh nghiệp cần ưu tiên ổn định sản xuất, tập trung vào lĩnh vực chính và giảm các hoạt động đầu tư đa ngành. Đánh giá lại tiềm lực để xây dựng chiến lược kinh doanh mới phù hợp với điều kiện thực tế.
DN cần chủ động trong việc tìm hiểu sâu các quy định của WTO, các cam kết trong các Hiệp định FTA, từ đó tận dụng cơ hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của DN phát triển.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: