Ở Mỹ, các cơ quan tiền tệ mà chúng ta đã nhắc đến là thành viên của ủy ban chính phủ thuộc ngân hàng dự trữ liên bang (the FED). Ủy ban này trực tiếp quản lý hoạt động của 12 ngân hàng trung ương, mà các ngân hàng này lại kiểm soát các hoạt động vay mượn của các ngân hàng quốc gia và tổ chức tài chính. Mục tiêu của Fed là kiểm soát cung tiền. Nhưng bởi vì các khoản kí gửi ở các ngân hàng chiếm một phần rất lớn trong cung tiền, một phần quan trọng trong nhiệm vụ của họ liên quan đến việc bảo đảm tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Thông tin lịch sử
Vào đầu thế kỹ 20, Quốc Hội quyết định rằng quyền hạn tập trung và kiểm soát công là rất cần thiết để có một hệ thống ngân hàng hiệu quả. Phân tán quyền lực, không có luật ngân
hàng đã mang lại nhiều bất cập và nhầm lẫn của nhiều loại trái phiếu ngân hàng được sử dụng như tiền. Đồng thời điều này cũng tạo ra nhiều sự cố về điều hành tiền tệ trong đó cung tiền chưa hợp lý với nhu cầu của nền kinh tế. Có lúc thì quá nhiều tiền tệ lưu thông dẫn đến lạm phát, có lúc thì quá ít tiền tệ và cản trở sự tăng trưởng của nền kinh tế bằng cách cản trở sản xuất và sự trao đổi hàng hóa dịch vụ. Trước đây, đã không có một tổ chức nào chịu trách nhiệm ban hành và thực thi thống nhất các chính sách ngân hàng trên toàn quốc.
Người viết: Phạm Thị Thùy Miên
Hơn nữa, những vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng thường nãy sinh khi các ngân hàng hoặc đóng cửa hoặc đòi các khoản thanh toán khẩn để trả các khoản vay nhằm phòng ngừa sụp đổ. Những thời điểm như vậy, khủng hoảng ngân hàng có thể xuất hiện, các cá nhân và doanh nghiệp mất đi niềm tin vào ngân hàng và sẽ có khuynh hướng rút hết tiền đang kí
gửi tại ngân hàng, và làm khủng hoảng thêm hệ thống ngân hàng đã bị yếu đi.
Một cuộc khủng hoảng tồi tệ bất thường xãy ra năm 1907 đã tạo động lực cho Quốc hội chỉ định thành lập Ủy ban tiền tệ quốc gia để nghiên cứu tiền tệ và các vấn đề trong ngân hàng của nền kinh tế, và hoạch định chính sách hoạt động cho Quốc hội. Kết quả là sự ra đời của Hiệp định dự trữ liên bang 1913.
Bây giờ chúng ta hã cùng phân tích những phần khác nhau của Cục dự trữ liên bang (Fed) và mối quan hệ của Fed với những cơ quan khác.
Hội đồng quản trị
Quyền hạn chính của hệ thống ngân hàng và tiền tệ Mỹ đó chính là Hội đồng quản trị của Fed. Tổng thống Mỹ, với sự đồng tình của Quốc hội, chỉ định và bầu cử 7 ủy viên của hội đồng quản trị. Nhiệm kỳ là 14 năm và luân phiên, và mỗi thành viên được thay thế 2 năm một lần. Thêm vào đó, thành viên mới được đề cử nếu như các thành viên cũ từ chức. Tổng thống lựa chọn chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng quản trị từ những ủy viên này. Những thành viên này phục vụ nhiệm ký 4 năm và có thể được tái cử nhiệm kỳ mới 4 năm tiếp theo bởi tổng thống. Nhiệm kỳ dài hạn mang đến cho các thành viên kinh nghiệm tiếp diễn, không phụ thuộc vào sức ép chính trị mà có thể gây ra lạm phát.
12 Ngân hàng trung ương
12 ngân hàng trung ương, kết nối sự kiểm soát tư nhân và công cộng, đóng vai trò như là ngân hàng trung ương của quốc gia. Các ngân hàng này cũng đóng vai trò như là chủ ngân hàng của các ngân hàng con.
Hầu hết các quốc gia đều có một ngân hàng trung ương. Ví dụ, Britain’s Bank ở Anh, hay Bank of Japan ở Nhật. Ngân hàng trung ương ở Mỹ bao gồm 12 ngân hàng mà những chính sách của họ được quản lý và điều động bởi các ủy viên hội đồng quản trị của Fed. 12 ngân hàng trung ương này được điều chỉnh theo qui mô địa lý và tình hình kinh tế của Mỹ và là ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính lớn nhất quốc gia.
Các ngân hàng bán công 12 ngân hàng trung ương là những ngân hàn bán công, kết hợp sở hữu tư nhân và kiểm soát của chính phủ. Mỗi ngân hàng trung ương được sở hữu bởi một ngân hàng thương mại ở tại tiểu bang đó (các ngân hàng có đặc quyển liên bang bắt buộc phải mua cổ phiếu tại ngân hàng trung ương ở tại tiểu bang đó.) Tuy nhiên, Ban quản trị của Fed, hoạch định ra những chính sách và các ngân hàng trung ương phải thực thi những chính sách đó.
Mặc dù được sở hữu tư nhân, các ngân hàng trung ương hoạt động như những tổ chức công cộng. Không giống như các doanh nghiệp tư nhân, họ không có động lực là lợi nhuận. Các chính sách mà họ sử dụng được thiết kế bởi ban quản trị của Fed với mục đích thúc đẩy đời sống kinh tế như một tổng thể. Vì vậy, các hoạt động của ngân hàng trung ương thường
ngược lại với động cơ lợi nhuận. Và ngân hàng trung ương cũng không cạnh tranh với các ngân hàng thương mại. Thông thường, họ không giao dịch với người dân, thay vào đó, các ngân hàng này giao dịch với các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính.
Chủ ngân hàng của các ngân hàng Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của các ngân
hàng thương mại. Nó thực hiện các chức năng chủ yếu tương tự như chức năng mà ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính thực hiện với người dân. Cũng như ngân hàng và tổ chức tài chính nhận các khoản kí gửi và cho người dân vay, thì ngân hàng trung ương cũng nhận kí gửi và cho ngân hàng thương mại vay. Thông thường, những khoản vay này trung bình chỉ khoản $150 triệu đô một ngày. Nhưng trong những tình huống đặc biệt, ngân hàng trung
ương trở thành người cho vay cuối cùng đối với hệ thống ngân hàng và có thể cho ngân hàng vay số vốn họ cần để đáp ứng các trách nhiệm của họ. Vào ngày sau cuộc tấn công khủng bố
11/9/2001, ngân hàng trung ương cho các ngân hàng và tổ chức tài chính vay khoảng $45 tỷ
đô. Ngân hàng trung ương muốn bảo đảm rằng việc phá hủy thành phố New York và
Washington sẽ không tạo ra khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng trung ương còn có chức năng thứ ba nữa mà các ngân hàng và tổ chức tài chính không thực hiện: họ phát hành tiền. Quốc hội đã ủy quyền cho ngân hàng trung ương đưa vào vòng chu chuyển tiền của ngân hàng, qua đó tạo nên cung tiền của nền kinh tế.
FOMC họp thường xuyên để hướng dẫn chỉ định việc mua bán các công cụ tài chính của chính phủ (tiền, trái phiếu) trên thị trường mà ở đó các công cụ tài chính này được mua bán hàng ngày. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong chương 33 rằng mục đích của việc mua bán được gọi là nghiệp vụ thị trường mở này là nhằm kiểm soát cung tiền trong nước và ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân hàng trung ương ở New York thiết lập hầu hết các nghiệp vụ thị trường mở của chính phủ.