Biến đổi khí hậu và kinh tế học
Nước Mỹ đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc làm sạch không khí. Theo EPA, giữa năm 1990 và 2000 các đạo luật về không khí sạch và những nỗ lực chống ô nhiễm của các doanh nghiệp và chính quyền địa phương đã làm giảm nồng độ chì 60%, carbon monoxide và dioxide lưu huỳnh 36%, hạt vật chất 18%, nitrogen dioxide 10%, và khói 4%.
Tuy nhiên, vấn đề ô nhiễm không khí đáng kể vẫn còn, bao gồm cả vấn đề biến đổi khí hậu đang gây tranh cãi. Trong thế kỷ qua, bề mặt của trái đất đã ấm lên khoảng 1 độ F, tăng bằng tốc độ ấm lên của hai thập kỷ qua. Một số nơi trên bề mặng nóng lên có thể chỉ đơn giản chỉ là phản ánh biến động của tự nhiên khi trái đất nóng lên hoặc dịu đi nhưng các bằng chứng khoa học cho thấy rằng hoạt động của con người là một nhân tố góp phần tạo ra hiện tượng này. Theo EPA và các nhóm nghiên cứu quốc tế, lượng khí carbon dioxide và các khí thải khác từ các nhà máy sản xuất, nhà máy điện, xe ô tô, và các nguồn nhân lực khác tích tụ lại trong bầu khí quyển của trái đất và tạo ra hiệu ứng nhà kính.
Do hiệu ứng nhà kính, người ta dự báo nhiệt độ trung bình sẽ tăng từ 1 đến 4,5 độ F trong vòng 50 năm tới và 2.2 đến 10 độ vào năm 3000. Mặc dù có sự khác nhau đáng kể giữa các khu vực, các nhà khoa học thông báo nhiều nơi trên thế giới sẽ gánh chịu những thay đổi đáng kể của khí hậu. Mưa nhiều, lượng mưa thay đổi, và mực nước biển sẽ dần dần tăng lên 2 feet. Lượng tuyết tích tụ ở một số nơi có thể giảm và một số vùng khác sẽ tăng. Nhiều cơn bão dữ dội như cơn lốc xoáy và bão lớn có thể xảy ra ở một số vùng.
Các quốc gia trên thế giới đã tự mình hoặc liên kết ứng phó với các mối đe dọa biến đổi khí hậu. Nghị định thư Kyoto năm 1997, đại diện của các quốc gia công nghiệp tiên tiến đồng ý đến năm 2012 sẽ cắt giảm lượng khí thải hiệu ứng nhà kính xuống dưới từ 6 đến 8% so với năm 1990. Từ năm 1997, tất cả các quốc gia ký kết, ngoại trừ Mỹ, đã thông qua hiệp định Kyoto dù thực sự một số ít chưa có khả năng để đáp ứng mục tiêu năm 2012. Năm 2001 sau cuộc bỏ phiếu của thượng viện, kết luận hạn chế hiệu ứng nhà kính sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Mỹ nên Mỹ quyết định không tham gia hiệp định thư Kyoto. Nước Mỹ cũng bày tỏ lo ngại rằng hiệp ước này sẽ nhanh chóng loại trừ các nước đang phát triển như Trung Quốc, một trong những nước xả thải lượng khí carbon dioxide và các khí nhà kính khác hàng đầu hiện nay. Một năm sau Mỹ công bố chương trình “biến đổi khí hậu toàn cầu” thiết kế tiên phong để sử dụng đầu tư năng lượng sạch nhằm làm giảm khí gây hiệu ứng nhà kính tính theo giá trị bằng tiền của GDP khoảng 18% vào năm 2012.
Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng các chính sách biến đổi khí hậu nhằm giảm xả thải khí nhà kính và do đó làm chậm lại hoặc loại bỏ sự nóng lên toàn cầu mà cũng tạo ra chi phí và lợi ích. Vì vậy chúng ta buộc phải xem xét các chi phí cận biên và lợi ích cận biên một cách cẩn thận khi đưa ra quyết định chính sách. Giới hạn khí nhà kính không nên quá nghiêm ngặt đến mức chúng làm cho chi phí xã hội lớn hơn giá trị lợi ích. Nhưng những giới hạn này cũng không quá lỏng lẻo tới mức xã hội bị mất đi những lợi ích tiềm năng cần thiết mà đáng ra phải nhận được.
Kinh tế cũng nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường, thông qua hệ thống giá cả và lợi nhuận và thua lỗ, sẽ có những điều chỉnh thích hợp dựa trên thực tế của khí hậu. Lượng bán máy điều hòa nhiệt độ có thể tăng, doanh số bán xẻng xúc tuyết có thể giảm. Một số vùng đất nông nghiệp có thể sẽ bị bỏ hoang, những vùng xa xôi về phía bắc sẽ được canh tác. Ngành chế biến xi-rô lá cây thích ở New England có thể chuyển sang Canada. Tuy nhiên, chi phí chuyển đổi - chi phí đi cùng với việc điều chỉnh kinh tế - của việc nóng lên toàn cầu chắc chắn sẽ rất cao trừ phi người ta phải thực hiện các hành động giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Nhưng các nền kinh tế công nghiệp phát triển trên các nguồn năng lượng sử dụng khí carbon, do đó chi phí của việc giảm các loại khí này khá cao. Vấn đề liên quan từ quan điểm kinh tế là: liệu xã hội sẽ ít tốn kém chi phí giảm xả thải khí nhà kính hay đơn giản là tìm cách giảm thiểu tác động của chúng? Câu trả lời không dễ chút nào. Một số kết hợp của việc “giảm” và “giảm thiểu” chưa biết được trên thực tế có thể hóa ra là tối ưu.
Nếu chính phủ liên bang quyết định tích cực giảm lượng khí thải carbon, thì nên sử dụng những chính sách chung nào? Các nội dung trước trước đây về ngoại tác cho thấy hai lựa chọn rõ ràng: đánh thuế carbon và mua và bán giấy phép xả thải.
Chính phủ Liên bang có thể đánh thuế carbon lên mỗi tấn carbon thải ra. Loại thuế này sẽ làm tăng chi phí sản xuất cận biên của các doanh nghiệp mà xả thải carbon vào không khí trong quá trình sản xuất. Do gia tăng chi phí cận biên, các đường cung trong thị trường bị ảnh hưởng sẽ dịch chuyển sang trái. Cung thị trường giảm sẽ làm tăng mức giá cân bằng và giảm lượng cân bằng. Với sản lượng thấp hơn, lượng khí thải carbon trong các ngành công nghiệp sẽ giảm.
Một khi đánh thuế carbon thì chính phủ chỉ can thiệp ở mức tối thiểu. Chính quyền liên bang có thể trực tiếp kiểm soát các khoản thu từ thuế để nghiên cứu công nghệ sản xuất làm sạch hơn hoặc đơn giản là sử dụng nguồn thu mới để giảm các loại thuế khác. Tuy nhiên, ở đây thường không có sự cho không: theo một nghiên cứu vào năm 2007, mức thuế đề xuất 15USD cho mỗi tấn carbon thải ra sẽ tăng thêm thêm 14 cent cho 1 gallon xăng.
Một cách tiếp cận khác là chương trình mua bán giấy phép xả thải. Chính phủ liên bang có thể tính toán phí xả thải dựatrên tổng số lượng khí carbonthải ravà sau đó phát hành quyền xảthải hoặc bán đấu giá giấy phép. Chươngtrìnhcấpgiấy phép xả thảisẽ làm giảm tổng chi phí để giảm lượng khí thải carboncủa xã hội. Theo đó, biện pháp nàysẽ hiệu quả hơn biện pháp kiểm soáttrực tiếp mà buộcmỗi nhà sản xuất tạo ra khí gây hiệu ứng nhà kính phảigiảm lượng khí thải theo mộttỷ lệ nhất định. Chương trình mua bán giấy phép xả thải hiện nay – tính luôn cả thị trường mua bán giấy phép về khí carbon của châu Âu - cho thấy chương trình này hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, những chương trình như vậy đòi hỏi chính phủ phải giám sát và thi hành các quy định một cách chặt chẽ.
Nguyễn Lê Giang Thiên, dịch từ Economics, Campbell R. McConnell; Stanley L. Brue; Sean Masaki Flynn, McGraw-Hill Higher Education
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: