Giảng dạy PBL trong Thương mại quốc tế bằng giáo trình nước ngoài (P.1)
Xu hướng toàn cầu hóa và chính sách mở cửa kinh tế của Việt Nam đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong việc xây dựng chương trình đào tạo ở các đại học [VNHT 2016] nên đòi hỏi sự thay đổi về phương pháp giảng dạy tương ứng. Việc quốc tế hóa giáo dục đại học đã góp phần nâng cao chất lượng, trải nghiệm học tập, mang lại tiềm năng nghề nghiệp cho sinh viên [ND 2017]. Các trường đại học đã tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy từ 10 năm trước như Đại học Công nghệ bưu chính viễn thông [Thành] để thay thế dần các phương pháp giảng dạy truyền thống đã lỗi thời, lạc hậu ngăn cản quá trình hội nhập với thế giới. Trong bối cảnh này, cần tìm tìm kiếm những phương pháp giảng dạy phù hợp hơn. Sự thay đổi từ triết lý giáo dục, chương trình giáo dục đến phương pháp giảng dạy, tài liệu học tập sẽ góp phần đào tạo nên những con người có tư duy toàn cầu, có khả năng hợp tác và làm việc trong môi trường quốc tế.
Đại học Duy Tân là một trong những đại học tư thục hàng đầu ở Việt Nam đã nắm bắt xu hướng phát triển của xã hội, đưa mục tiêu đào tạo người học có thể làm việc trong môi trường quốc tế trở thành sứ mệnh. Bên cạnh việc hoàn thiện một hệ thống cơ sở vật chất với trang thiết hiện đại, nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên, trường còn chọn cho mình một hướng đi mới là tăng cường sự hợp tác quốc tế với các trường đại học có uy tín nhằm đào tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao thúc đẩy tiến trình hội nhập của Việt nam với thế giới. Đại học Duy Tân đã ký kết chuyển giao chương trình đào tạo ngành Quản trị kinh doanh với đại học Penn State về phương pháp giảng dạy, nguồn học liệu cho những môn học chuyên ngành. Môn Kinh doanh quốc tế là một trong những môn học được chuyển giao nhằm mục đích trang bị cho người học các kiến thức để tham gia thị trường lao động toàn cầu một cách nhanh chóng nhất, ít rào cản nhất. Hướng tiếp cận của các tác giả nguồn học liệu là chuẩn bị cho sinh viên Mỹ có kiến thức và kỹ năng để đi ra nước ngoài làm việc chưa thực sự phù hợp với điều kiện ở Việt Nam – quốc gia chủ yếu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước người, thuê lao động Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. Trong bài phỏng vấn về chất lượng lao động Việt Nam ở VOV, ông Đào Quang Vinh đã nêu thực tế năng suất và chất lượng lao động Việt Nam khá thấp, thiếu lao động ở phân khúc trình độ cao, các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, ngoại ngữ, tư duy phản biện, sáng tạo, tuân thủ công nghệ cũng còn khá thấp, một số lĩnh vực phải thuê người nước ngoài làm việc. Để góp phần giải quyết hạn chế này, môn Kinh doanh quốc tế trong chương trình chuyển giao đã được điều chỉnh hướng tiếp cận, đề cương môn học, sử dụng giáo trình của Mỹ và giảng dạy theo phương pháp giải quyết vấn đề (PBL).
PBL là phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm nên chủ yếu đặt người học vào bối cảnh thực tế, giao nhiệm vụ và vấn đề cụ thể để người học giải quyết. So với cách học thuyết giảng truyền thống, PBL khuyến khích sinh viên phối hợp trong nhóm và tự động học tập để giải quyết những vấn đề thực tiễn mà vấn đề đó hiện đang là mối quan tâm của doanh nghiệp. Qua phương pháp học tập này, sinh viên được rèn luyện thêm các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, sáng tạo, lập luận, tư duy phản biện, xử lý thông tin và cả các cách thức ứng.
Nguồn gốc của thuật ngữ PBL (Problem-based Learning) bắt nguồn từ Don Woods khi ông này giảng dạy cho các sinh viên chuyên ngành hóa học của mình tại McMaster University tại Canada. Tuy nhiên, thuật ngữ PBL chỉ thực sự nổi tiếng trên thế giới sau khi phương pháp giáo dục hiện đại này được áp dụng rộng rãi tại khoa y của McMaster University. Quá trình học theo phương pháp PBL chủ yếu dựa vào công việc giữa các nhóm nhỏ.
Hiện nay có rất nhiều cách triển khai khác nhau về PBL (Graaff & Kolmos, 2007) như A problem a day -được phát triển bởi trường Republic Polytechnic, Singapore và được đặt tên là “one-day one-problem approach” (mỗi ngày một bài toán). Với cách tiếp cận này, sinh viên sẽ dành nguyên một ngày để nghiên cứu một vấn đề. Sau một tuần học, sinh viên sẽ nghiên cứu được 5 vấn đề khác nhau nhưng có liên quan đến nhau; hoặc Problem-based Learning Online - Sử dụng phương pháp giảng dạy trực tuyến kết hợp với PBL; hoặc Problem-based Learning in Early Years Education.
Mô hình PBL của ĐH Aalborg: trong những năm 70 của thế kỉ XX, tại Đan Mạch có 2 trường ĐH được thành lập: Roskilde University Centre vào năm 1972 và Aalborg University vào năm 1974. Dưới đây là mô hình của một học kì được thiết kế theo phương pháp PBL của ĐH Aalborg, Đan Mạch.
Điều kiện để triển khai: Từ lý thuyết cơ bản của PBL là quá trình học chủ yếu dựa trên các nhóm nhỏ nên điều kiện tiên quyết của việc tổ chức các lớp học theo PBL là số lượng sinh viên của lớp học không nên vượt quá 30 sinh viên/lớp. 30 sinh viên/lớp với số lượng thành viên mỗi nhóm nhỏ là 4-6 sinh viên/nhóm sẽ giúp cho số lượng nhóm không vượt quá 5 nhóm, thuận tiện hơn cho giảng viên trong quá trình tương tác với nhóm. (Graaff & Kolmos, 2007)
Các bên liên quan trong việc giảng dạy theo PBL: Tác giả (Powell, 2003) đã từng phát biểu rằng: “Thách thức lớn nhất đối với lãnh đạo của một trường đại học tính tới thời điểm hiện tại là thuyết phục đội ngũ giảng viên của mình từ bỏ thực tiễn giảng dạy quen thuộc đang áp dụng hàng ngày để đầu tư công sức vào một hình thức giáo dục mới trong đó có rất nhiều lối tư duy mới được thực hiện”. Một trong các nguyên lý của PBL đó là đề cao vai trò của giảng viên trên lớp với điều kiện người giảng viên đó phải được và đã trải qua quá trình học hỏi và trau dồi kinh nghiệm từ một tập thể các đồng nghiệp có cùng quyết tâm đổi mới phương pháp sư phạm theo PBL.
Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến giáo trình và học liệu khi triển khai PBL: Trong lĩnh vực giảng dạy y khoa, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để tìm hiểu sự ảnh hưởng và mối quan hệ giữa việc sử dụng thư viện và giảng dạy PBL cho các sinh viên y. Các nghiên cứu này được thực hiện rải rác từ năm 1992 đến 2008. (Rankin, 1992) (Marshall JG, 1993) (EA, 2008) Từ đây, tác giả Rankin và cộng sự đã chỉ ra rằng: “Medical students in PBL and conventional medical school curricula were compared on library and information-seeking competencies, behaviors, and perceptions. The results showed certain significant differences (P less than 0.05) between PBL and conventional curriculum students, suggesting that PBL students were the more frequent library users, used information resources that supported the independent learning process, acquired information-seeking skills at an earlier stage in their medical education, and reported greater ease in using these skills.” (Rankin, 1992)
Đối với giảng dạy sinh viên các ngành kinh tế, nghiên cứu năm 2013 của Satish Nargundkar và cộng sự chỉ ra rằng, bằng việc sử dụng một giáo trình đã được chỉnh sửa, biên soạn lại từ giáo trình gốc rồi mới triển khai PBL vào giảng dạy, kết quả đạt được so với giáo trình phục vụ phương pháp giảng dạy truyền thống là rất khả quan. Cụ thể, “We found that this approach motivated the students and improved their performance on a departmental final exam by about 9% on average, or almost one letter grade. When measured on Critical Thinking questions alone, the improvement was roughly 24% on average. Finally, it also improved group task performance by 6%.” (Nargundkar, Samaddar, & Mukhopadhyay, 2013). Dựa trên nghiên cứu của Satish Nargundkar và các cộng sự, Hala M. L. Enaba và cộng sự cho rằng, đối với các lớp marketing cơ bản, để áp dụng PBL vào trong giảng dạy, rất cần thiết phải có một giáo trình được chỉnh sửa (a reversed book) để nâng cao tính hiệu quả trong giảng dạy. (Enaba, Fouad, & Nargundkar, 2016)
Tại các nước châu Á, một nghiên cứu cách đây hơn 30 năm tại Thái Lan cho thấy “textbooks may affect achievement by substituting for additional postsecondary mathematics education of teachers and by delivering a more comprehensive curriculum.” (Lockheed, Vail, & Fuller, 1986) Đến 2002 tại Yonsei University College of Medicine, Korea, một nghiên cứu khác khẳng định lại sinh viên châu Á thường rất phụ thuộc vào giáo trình trong quá trình tự học. Cụ thể, “Students heavily rely on using textbooks during their self-regulated learning. And the elements greatly effecting the learning environment are physical environment and the use of humor in class.” (Y & S, 2002)
Tại Việt Nam, PBL là một lĩnh vực nghiên cứu tuy không còn mới lạ nhưng vẫn chưa có nhiều kết quả. Hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về hiệu quả sử dụng các giáo trình từ các chương trình liên kết với nước ngoài để giảng dạy đại học ở Việt Nam nói chung và khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh nói riêng.
Hợp tác quốc tế là chiến lược được đặt ra ngay từ những ngày đầu tiên thành lập trường đại học Duy Tân. Sự thành công trong chương trình hợp tác với CMU đã tạo nên một bước ngoặc lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT, trường đã tiếp tục nâng cao chất lượng ở khối ngành kinh tế khi trường chính thức ký kết với Đại học Bang Pensylvania PSU như chương trình Quản trị kinh doanh, Du Lịch, Tài chính. Đặc trưng mang tính sư phạm của chương trình PSU là sự kết hợp các kiến thức lý thuyết và thực hành giúp sinh viên ra trường có thể tham gia ngay vào thị trường lao động. Trong một nỗ lực xây dựng và cải thiện chương trình Cử nhân (Đại học) Quản trị và Dịch vụ, một điều tra của PSU với các chủ doanh nghiệp đã được tiến hành để tìm hiểu thêm những đặc thù mà các chủ doanh nghiệp cho là cần thiết và quan trọng đối với nhân viên mới được tuyển vào. Các chủ doanh nghiệp đã nhấn mạnh đến các yếu tố như: khả năng giải quyết vấn đề, khả năng đàm phán, tư duy phê phán, kỹ năng trình bày, viết lách và sự chín chắn về nhân cách. Tất cả các yếu tố này đều được tích hợp vào chương trình đào tạo, thể hiện ở phương pháp giảng dạy PBL và nguồn học liệu.
Phương pháp giảng dạy PBL theo học liệu chuyển giao trong môn học Kinh doanh quốc tế Tại Đại học Duy Tân hiện nay tồn tại 2 chương trình đào tạo ngành Quản trị kinh doanh, 1 là chương trình QTKD truyền thống (BA) và 2 là chương trình Quản trị kinh doanh chuyển giao (BA-PSU) chuyển giao học liệu và phương pháp giảng dạy từ Đại học Penn State. Với tính chất quan trọng của môn học, cả hai chương trình đều có môn Internation Business trong khung chương trình. Kể từ năm 2015, Đại học Duy Tân bắt đầu có lớp học International Business trong chương trình BA-PSU.
Với chương trình BA truyền thống, việc giảng dạy môn IB được giảng dạy với nhiều sách học khác nhau, theo phương pháp giảng dạy truyền thống, chú trọng đến việc chuyển tải kiến thức và người dạy. Sinh viên sẽ nghe giảng, ghi chú, đặt câu hỏi, đọc nhiều tài liệu khác nhau để thu thập thông tin và kiến thức. Phương pháp này không thúc đẩy sự phát triển kỹ năng, năng khiếu, aptitude và tinh thần cạnh tranh mà chỉ đơn thuần là bổ sung kiến thức cần thiết. Đến năm học 2014-2015, môn học đã được chuyển sang giảng dạy theo phương pháp PBL, xây dựng kiến thức dựa trên vấn đề thực tế, sinh viên bắt buộc phải làm việc nhóm để thảo luận, nghiên cứu và giải quyết vấn đề dưới sự dẫn dắt của giảng viên.
Chương trình BA-PSU được triển khai từ năm học 2010 – 2011 song đến năm 2014-2015 mới được chuyển giao và giảng dạy cho sinh viên. Giáo trình Global Business Today của tác giả Charles W. Hill được sử dụng giảng dạy từ ấn bản 8th đến ấn bản 10th 2016. Cấu trúc sách gồm 5 phần: Giới thiệu về toàn cầu hóa, Sự khác biệt quốc gia về chính trị kinh tế văn hóa, Đầu tư và thương mại quốc tế, Hệ thống tiền tệ toàn cầu và Cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Trong 5 phần đó, phần 2 và 5 chính là phần nội dung cốt lõi nhằm trang bị cho người học cả kiến thức và kỹ năng khi tham gia thị trường lao động quốc tế. Để thành công khi làm việc ở nước ngoài sinh viên cần biết về sự khác biệt về kinh tế chính trị, phong tục tập quán của quốc gia đến. Để tồn tại trên thị trường toàn cầu, doanh nghiệp cần lựa chọn chiến lược kinh doanh quốc tế phù hợp, lựa chọn mô hình gia nhập thị trường nước ngoài, hiểu rõ hoạt động sản xuất, toàn cầu, logistic, marketing, R&D và nhân lực. Understanding the global economy and demonstrating respect for diversity and cultural differences, therefore, is necessary for all engaged in business and careers, regardless of the size or type of business or career endeavor. Đúng như giới thiệu về giáo trình trên website của nhà xuất bản Mc Grawhill, “Global Business Today appeals to instructors looking for an analytical (as opposed to a descriptive) approach to the course” và “Global Business Today is known for being practical, which is an important point as many instructors who teach this course are often not researchers, but come from the business world”.
Các nghiên cứu tình huống đề cập đến trong sách là tình huống thực tế từ các doanh nghiệp ở Mỹ hoặc các nước khác đi nước ngoài đầu tư như Starbucks và cà phê, Apple và Iphone, Văn hóa kinh doanh ở Trung Quốc, Panasonic và thay đổi văn hóa ở Nhật Bản, Walmart ở Nhật Bản, Avon, IBM, GM ở Trung Quốc, Phillips liên doanh ở nước ngoài, Boeing, Ngành công nghiệp ô tô Ấn độ, Marketing toàn cầu của Ford, Lenovo, P&G.v.v. gắn liền với các nội dung bài giảng vào đầu và cuối mỗi chương. Các doanh nghiệp trong những nghiên cứu tình huống này đa phần là doanh nghiệp từ Mỹ và các nước phát triển đi đầu tư ở nước ngoài gặp các trục trặc ở nơi đến. Đồng thời cũng là các tập đoàn đã và đang hoạt động đầu tư tại Việt Nam như Starbuck, Panasonic, IBM, Ford, Phillips[thuongmai.vn] và sử dụng một lượng lớn lao động ngươi Việt. Theo kết quẩ Tổng điều tra Kinh tế năm 2017 của Tổng cục thống kê, các doanh nghiệp FDI tăng bình quân 15 người/1 doanh nghiệp so với năm 2012, trong khi đó Lao động bình quân một doanh nghiệp giảm từ 32 người xuống 27 người trong đó doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước đều giảm tương ứng là 20 người và 3 người/1 doanh nghiệp. Do vậy, việc triển khai giảng dạy theo phương pháp PBL trong môn Thương mại quốc tế cho cả chương trình BA truyền thống và BA-PSU là một điều tất yếu.
Giảng viên giảng dạy IB cho cả 2 chương trình thống nhất xây dựng lại (1) mục tiêu chính của môn học nhằm prepare students to understand the differences and complexity between domestic and international organizations to compete và làm việc successfully in this global environment, develop in students an awareness of the impact of environmental forces including politics, regulations, legalities, economics, culture, technology and competition cũng như , (2) chọn lọc các nghiên cứu tình huống từ sách, sau đó đặt các câu hỏi mở cho mỗi tình huống, yêu cầu sinh viên phân tích và tìm cách giải quyết vấn đề đó khi sinh viên làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam và (3) dung phương pháp PBL trong bài tập nhóm dự án của môn học.
Đối với bài tập nhóm, các giảng viên đưa ra chủ đề về dự án cho nhóm sinh viên lựa chọn, yêu cầu nhóm sinh viên thực hiện theo 3 giai đoạn: (1) phân tích sản phẩm, (2) phân tích môi trường làm việc và kinh doanh và (3) xử lý các vấn đề nảy sinh khi làm việc tại doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hoặc kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Thời gian sinh viên làm bài tập của từng giai đoạn gắn với kiến thức lý thuyết trong sách.
Mô hình qui trình tổ chức giảng dạy theo phương pháp PBL:
(còn tiếp)
Thien Nguyen Le Giang1, Dat Tran Tuan2 and Ngon Nguyen Thi Tuyen3
International School, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, nguyenlgiangthien@dtu.edu.vn;
2 International School, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, trantuandat@dtu.edu.vn;
3Faculty of Business Administration, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, nguyenttuyenngon@dtu.edu.vn
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: