Đi đầu trong nghiên cứu lý thuyết về quy mô HĐQT là Lipton và Lorsch (1992) và Jensen (1993). Các tác giả lập luận rằng, mặc dù về sơ khởi, HĐQT có quy mô lớn sẽ có những thuận lợi trong việc nâng cao các chức năng trong ban quản trị nhƣ việc hỗ trợ tƣ vấn, giảm chuyên quyền của các nhà quản lý, nhƣng khi quy mô HĐQT tăng đến một mức nào đó, sẽ xuất hiện tính phi hiệu quả ảnh hƣởng lớn đến những thuận lợi ban đầu. Quy mô HĐQT càng lớn sẽ phải đối mặt với vấn đề về khả năng điều phối công việc và trao đổi thông tin. Ngoài ra, Lipton và Lorsch (1992) cho rằng, khi quy mô HĐQT gia tăng sẽ xuất hiện tính ỷ lại, chủ quan trong việc giám sát của HĐQT. Bởi vì tồn tại một chi phí tiềm ẩn khi bất kỳ một thành viên HĐQT nào chỉ biết thụ hƣởng mà không cống hiến, chi phí này sẽ gia tăng tƣơng xứng với quy mô HĐQT lớn khi có sự hiện diện của những cá nhân mang tính chất này (tính “ăn theo”), do vậy làm giảm đi hiệu suất tài chính công ty. Chính vì vậy mà Jensen (1993) cho rằng, khi các thành viên HĐQT tăng đến 7 hay 8 ngƣời, thì HĐQT sẽ giảm đi các chức năng thật sự của mình và điều này góp phần làm giảm tính giám sát tổng giám đốc. Và ông khuyến nghị quy mô HĐQT không nên có quá 7 hay 8 ngƣời cho tất cả doanh nghiệp vì đây là mức tối ƣu. Trong khi đó, Lipton và Lorsch (1992) cho rằng, quy mô HĐQT nên ở mức từ 8 đến 9 thành viên là tối ƣu. Mặt khác, các nhà nghiên cứu theo lý thuyết ràng buộc các nguồn lực cho rằng, quy mô HĐQT lớn hơn sẽ có mối liên hệ tích cực với hiệu suất tài chính công ty (Pfeffer và Salancik, 1978; Hillman và cộng sự, 2009). Các nhà điều hành sẽ nhận đƣợc những lời tƣ vấn, những định hƣớng tốt hơn khi HĐQT có quy mô lớn. Nghiên cứu của Yermack (1996) thừa nhận có mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính công ty. Trong nghiên cứu thực nghiệm, ông đã sử dụng chỉ số Tobin’s Q để đo lƣờng hiệu suất tài chính, với số quan sát là 452 doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp lớn ở Mỹ trong giai đoạn 1984-1991, kết quả là quy mô HĐQT tác động tiêu cực đến chỉ số Tobin’s Q. Tƣơng tự, Eisenberg và cộng sự (1998) cho rằng, những công ty nhỏ sẽ có các tỷ số tài chính thuận lợi hơn. Khi nghiên cứu 879 công ty tƣ nhân nhỏ ở Phần Lan, ông kết luận rằng, có mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô HĐQT với chỉ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (Return on asset - ROA). Không dừng lại ở đó, Barhart và Rosenstein (1998) cũng phát hiện thấy những công ty có ít thành viên trong HĐQT sẽ có hiệu suất tài chính cao hơn so với những công ty có nhiều thành viên trong HĐQT. Hermalin và Weisbach (2003) cho rằng khi quy mô HĐQT càng lớn thì hiệu suất tài chính sẽ kém hơn so với những công ty có quy mô nhỏ. Vì khi có quá nhiều ngƣời trong HĐQT thì chi phí đại diện sẽ gia tăng, làm cho vốn chủ sở hữu bị phân tán dẫn đến hạn chế sự giám sát các giám đốc từ cổ đông, bởi vì cổ đông này nghĩ rằng đã có cổ đông khác giám sát các giám đốc rồi (Jensen và Meckling, 1976). Khi nghiên cứu ở Malaysia, Mak và Kusnadi (2002) cũng có cùng quan điểm với Loderer và Peyer (2001) về tác động trái chiều của quy mô HĐQT với Tobin’s Q. Cheng, Evans và Nagarajan (2008) nghiên cứu 350 công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau và những thông tin tài chính của các công ty này đƣợc đăng trên Forbes 500. Từ đó, các tác giả kết luận rằng, mối quan hệ giữa hiệu suất tài chính công ty với quy mô HĐQT mang tính tiêu cực. Đóng góp vào kết quả nghiên cứu quy mô HĐQT có tác động tiêu cực đến hiệu suất tài chính công ty còn có các tác giả nhƣ: Shakir (2008); Guest (2009) và O’Connell và Cramer (2010). Tuy nhiên cũng có một số nghiên cứu phát hiện giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính công ty có mối quan hệ tích cực. Dalton và cộng sự (1999) cho rằng, HĐQT có quy mô lớn chiếm lợi thế trong việc nắm bắt và xây dựng hệ thống thông tin hoạt động lớn và do đó sẽ có hiệu suất tài chính cao hơn. Hơn nữa, tác giả còn cho rằng, HĐQT có quy mô lớn sẽ có nhiều trách nhiệm hơn trong việc giám sát, kỷ luật và miễn nhiệm những ban điều hành kém hiệu quả để đảm bảo rằng các giám đốc này luôn hƣớng đến lợi ích cho cổ đông. Đồng tình với quan điểm trên, Bhagat và Black (1999) cho rằng, không đủ tính thuyết phục để kết luận có sự tác động tiêu cực của quy mô HĐQT đến hiệu suất tài chính công ty khi tác giả thay đổi phƣơng pháp đo lƣờng hiệu suất tài chính. Belkhir (2004) nghiên cứu 174 ngân hàng trong giai đoạn 1995-2002 và phát hiện rằng quy mô HĐQT gia tăng không làm hiệu suất tài chính giảm. Đồng thời Anderson, Mansi và Reeb (2004) thừa nhận, giới đầu tƣ tin rằng các doanh nghiệp có quy mô HĐQT lớn hơn sẽ có cấu trúc tài chính đƣợc điều hành tốt hơn, dẫn đến những công ty đó sẽ giảm thiểu đƣợc chi phí vay mƣợn hơn. Tƣơng tự, Adams và Mehran (2005) nghiên cứu 35 ngân hàng cổ phần thƣơng mại ở Mỹ trong giai đoạn 1959-1999, cũng chỉ ra rằng không có mối quan hệ ngƣợc chiều giữa quy mô HĐQT và hiệu suất tài chính công ty. Các kết quả tƣơng tự đƣợc thảo luận từ Kyererboah-Coleman và Biepke (2006),nghiên cứu này cho thấy lợi thế chính của các công ty khi có nhiều các thành viên HĐQT chính là việc tiếp nhận các thông tin, điều này giúp cho họ nắm giữ nhiều tác nhân ảnh hƣởng đến giá trị công ty nhƣ là giá cả sản phẩm, công nghệ kỹ thuật, quy định điều lệ và việc mua bán sáp nhập. Cùng quan điểm trên, Tanna, Pasiouras và Nnadi (2008) nhấn mạnh đến mối quan hệ tích cực giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính của các ngân hàng ở nƣớc Anh. Và gần đây là nghiên cứu của Jaafar và El-Shwa (2009), tác giả sử dụng phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất 2 giai đoạn (2SLS) với bộ dữ liệu gồm 103 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Amman (Jordan) giai đoạn 2002-2005. Các tác giả tìm thấy kết quả có mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính công ty. Ngoài những kết quả có tác động trái chiều, hoặc cùng chiều giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính công ty nhƣ vừa đề cập ở trên thì còn có những kết quả nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, nghiên cứu của Beiner và cộng sự (2004) với bộ dữ liệu là 165 công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Thụy Sỹ và họ đã không tìm thấy có mối liên quan nào giữa quy mô HĐQT với chỉ số Tobin’s Q. Đồng quan điểm này, Topak (2011) nghiên cứu 122 doanh nghiệp ở Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn từ năm 2004 đến 2009 và ông kết luận rằng không có mối liên hệ nào giữa quy mô HĐQT với hiệu suất tài chính công ty.