Mối quan hệ giữa quản trị tài chính và cổ phần hóa
Quản trị tài chính là sự tác động của nhà quản trị đến các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp. Đây là một
trong các chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Quản trị tài chính có vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự
phát triển bền vững đối với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp (Vũ Hải Hà Nguyễn, 2017). Quản trị tài chính bao
gồm các hoạt động liên quan đến đầu tư, tài trợ và quản trị tài sản nhằm đạt được mục tiêu của công ty. Quyết định đầu
tư là quyết định quan trọng nhất trong ba quyết định căn bản của quản trị tài chính. Đây là quyết định liên quan đến tài
sản của doanh nghiệp, đầu tư hay thanh lý tài sản không còn giá trị kinh tế. Để tài trợ cho tài sản, các nhà quản trị tài
chính phải tìm kiếm các nguồn vốn thích hợp thông qua các quyết định tài trợ. Cuối cùng là quyết định quản trị tài sản
một cách có hiệu quả. Các tài sản khác nhau yêu cầu cách thức vận hành khác nhau. Do đó, các nhà quản trị thường
quan tâm đến quản trị tài sản ngắn hạn nhiều hơn quản trị tài sản dài hạn (Thanh Liêm Nguyễn và Nguyễn, 2009).
Các nghiên cứu đi trước đã chỉ ra tác động tích cực của cổ phần hóa đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đồng thời nhấn mạnh vai trò của quản trị tài chính sau cổ phần hóa.Quá trình cổ phần hóa DNNN đã góp
phần giảm mạnh số lượng DNNN, cải thiện cơ cấu DNNN theo hướng tích cực, đó là, DNNN chỉ nắm giữ những
ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh
tế. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp cổ phần cho thấy: hơn 90% doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất cao, vốn
điều lệ tăng 40%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập của người lao động tăng 11,84%, cổ tức bình quân là 17,11%/năm,
số lao động tăng gần 7%. Thêm vào đó, các DNNN cổ phần hóa đã góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước phải
bao cấp, bù lỗ hằng năm. Cùng với đó, trong quá trình cổ phần hóa, nợ xấu của các DNNN cũng được xử lý một cách
cơ bản; đồng thời, chấm dứt xu hướng thành lập DNNN một cách tràn lan. Trong các DNNN đã cổ phần hóa, vai trò
làm chủ của người lao động – cổ đông được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng
thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động (Hoàng Anh Duy và Lê Việt Anh, 2013).
Một nghiên cứu khác của Đoàn Ngọc Phúc và Lê Văn Phong (2014) đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sự độc
lập của Hội đồng quản trị và hiệu quả kinh doanh đo bằng ROA và ROE và phát hiện mối quan hệ tiêu cực giữa sở hữu
của Hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động đo lường bằng ROE. Từ đó nghiên cứu đã cho thấy sự tham gia của những
thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị từ bên ngoài đã nâng cao tính minh bạch, công khai trong quản trị doanh
nghiệp, giảm nguy cơ lạm dụng quyền lực của những người quản lý, bảo vệ lợi ích chính đánh của cổ đông giúp cho
việc hoạch định chiến lược, giám sát quá trình điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, khi tỷ trọng sở hữu nhà nước giảm xuống, các nhà đầu tư tổ chức, các cá nhân và tổ chức nước ngoài có
nhiều cơ hội tham gia sở hữu doanh nghiệp sẽ làm tăng số lượng cổ đông bên ngoài hoặc làm tăng thành viên nước
ngoài trong hội đồng quản trị, với khả năng tài chính, kinh nghiệm và kiến thức của họ sẽ thay đổi luật lệ và cơ cấu
quản trị doanh nghiệp, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: