Tính kinh tế theo quy mô và phạm vi trong ngành ngân hàng
Trong những năm 1980, ngành ngân hàng ở Mỹ trải qua một thời kỳ bãi bỏ nhiều quy định không được báo trước. Một trong những kết quả quan trọng của việc bãi bỏ này là các cơ quan lập pháp của bang thay đổi luật cho phép thực hiện các hoạt động ngân hàng liên bang.
Vào năm 1990, chỉ có ba bang hoàn toàn cấm các hoạt động ngân hàng liên bang. Một trong những tác động gây tranh cãi của các hoạt động ngân hàng liên bang là sự hợp nhất xảy ra thông qua các vụ sáp nhập và thôn tính các ngân hàng địa phương của những ngân hàng lớn ở các bang khác. Theo Robert Goudreau và Larry Wall, động lực chính cho những vụ mở rộng liên bang có vẻ như là để tăng sức mạnh thị trường, để đa dạng hóa lợi nhuận, và để tận dụng tính kinh tế theo quy mô và phạm vi. Khi tính kinh tế theo quy mô tồn tại trong ngành ngân hàng, các ngân hàng lớn sẽ có lợi thế về chi phí hơn so với các ngân hàng nhỏ. Nếu có tính kinh tế theo phạm vi trong ngành ngân hàng, thì các ngân hàng sẽ đưa ra nhiều dịch vụ ngân hàng hơn (các sản phẩm) với mức phí thấp hơn so với các ngân hàng cung cấp một lượng nhỏ các dịch vụ.
Có hai nghiên cứu thực nghiệm tìm cách tính toán tính kinh tế theo cả quy mô và phạm vi trong các ngành dịch vụ tài chính. John Murra và Robert White nghiên cứu 61 quỹ tín dụng ở British Columbia. Họ nhận ra ngành dịch vụ tín dụng này có tính kinh tế theo quy mô rất lớn. Các quỹ tín dụng lớn có chi phí trung bình dài hạn thấp hơn so với những quỹ tín dụng nhỏ. Họ cũng tìm thấy bằng chứng của tính kinh tế theo phạm vi ở các quỹ tín dụng cung cấp nhiều loại hình cho vay tiêu dùng và cho vay thế chấp. Do đó, các quỹ tín dụng cung cấp khoản vay mua ô tô cũng như vay thế chấp nhà có thể cung cấp các khoản vay thế chấp và vay mua ô tô với mức chi phí thấp hơn so với những quỹ tín dụng chỉ chuyên vào các khoản cho vay thế chấp nhà hay ô tô.
Trong một nghiên cứu khác, Thomas Gilligan, Michael Smirlock, và William Marshall đã nghiên cứu 714 ngân hàng thương mại để nhận dạng mức độ mở rộng của tính kinh tế theo quy mô và phạm vi trong ngành ngân hàng thương mại. Họ đưa đến kết luận rằng tính kinh tế theo quy mô trong ngành ngân hàng đang cạn kiệt khi các mức đầu ra khá thấp. Nói cách khác, đường chi phí trung bình dài hạn (LAC) của các ngân hàng thương mại có dạng giống như LAC. Khi LAC đạt giá trị nhỏ nhất tại các mức đầu ra khá thấp, các ngân hàng nhỏ không còn bất lợi về chi phí khi họ cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Tính kinh tế theo phạm vi cũng xuất hiện ở các ngân hàng cung cấp những gói sản phẩm ngân hàng truyền thống (nhiều loại vay và tiết kiệm). Dựa trên các bằng chứng thực nghiệm thì tính kinh tế theo quy mô không tác động mạnh đến mức đầu ra, Gilligan, Smirlock, và Marshall tranh luận rằng các nhà làm chính sách công không nên khuyến khích hoạt động sáp nhập ngân hàng để tiết kiệm chi phí. Họ cũng chỉ ra rằng khi dựa trên các chứng cứ về tính kinh tế theo phạm vi trong ngành ngân hàng thì các quy định của chính phủ hạn chế các loại hình cho vay và tiết kiệm của ngân hàng có thể dẫn đến các mức chi phí cao hơn.
Nguyễn Lê Giang Thiên, dịch từ sách “Kinh tế trong quản trị”, Nhà xuất bản Mc Grawhill
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: