Kế toán các khoản nợ khó đòi theo phương pháp lập dự phòng (Phần 2)
Phương pháp lập dự phòng Nợ khó đòi đòi hỏi kế toán phải có một sự ước tính giá trị khoản phải thu khó đòi vào cuối kỳ kế toán. Việc ước tính thông thường dựa vào tình hình thu nợ trong quá khứ của doanh nghiệp, mức bình quân của ngành và dự báo trong tương lai.
Có hai cách thường dùng để ước tính dự phòng Nợ khó đòi.
Vì khoản phải thu phát sinh từ việc bán chịu nên khoản phải thu không thể thu hồi được ước tính dựa trên tỷ lệ % doanh thu bán chịu. Nếu tỷ lệ doanh thu bán chịu trên tổng Doanh thu bán hàng tương đối ổn định thì Dự phòng Nợ khó đòi có thể ước tính dựa trên tổng doanh thu bán hàng (sales) hoặc doanh thu ròng (Net sales). Tỷ lệ % này thường dựa vào số liệu trong quá khứ.
Ví dụ: Vào 31/12/2010, công ty ExTone có các số liệu kế toán trước khi điều chỉnh như sau:
Số dư Nợ của TK Khoản phải thu $240,000
Số dư Có của TK Dự phòng Nợ khó đòi 3,250
Tổng doanh thu bán chịu 3,000,000
Tỷ lệ Nợ xấu/Doanh thu bán chịu (%) 0.75%
Chi phí Nợ xấu ước tính:
Chi phí Nợ xấu = Doanh thu bán chịu * Tỷ lệ Nợ xấu/Doanh thu bán chịu
Chi phí Nợ xấu = $3,000,000 * 3/4% = $22,500
Vào ngày 31/12/2010, bút toán điều chỉnh vào thời điểm cuối kỳ trích lập Chi phí Nợ xấu gắn liền với Doanh thu trong kỳ (2010) và trích lập dự phòng cho nợ khó đòi được ghi chép như sau:
31/12/2010 Nợ TK Chi phí Nợ xấu 22,500
Có TK Dự phòng Nợ khó đòi 22,500
(Ước tính KPT khó đòi
$3,000,000*3/4%=22,500)
Chuyển sổ bút toán điều chỉnh trên từ sổ nhật ký vào tài khoản sổ cái Chi phí Nợ xấu, tài khoản này sẽ có số dư sau điều chỉnh là $22,500 và tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi sẽ có số dư Có sau điều chỉnh là $25,750 (3,250+22,500).
Khi lập dự phòng nợ khó đòi theo phương pháp tỷ lệ phần trăm của doanh thu bán hàng, số tiền của bút toán điều chỉnh là số tiền ước tính dành cho Chi phí Nợ xấu cho doanh thu trong kỳ. Số tiền này luôn được ghi Có vào tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi, không quan tâm đến số dư chưa điều chỉnh hiện có của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi là dư Có hay dư Nợ.
Ví dụ: Giả sử trong ví dụ trên, tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi có số dư Nợ vào ngày 31/12/2010 là $2,100 chứ không phải là số dư Có $3,250. Chi phí nợ xấu vẫn được tính toán là $22,500. Số tiền của bút toán điều chỉnh vẫn là $22,500. Số dư sau điều chỉnh của tài khoản Chi phí Nợ xấu vẫn là $22,500. Tuy nhiên, sau bút toán điều chỉnh, tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi sẽ có số dư Có sau điều chỉnh là $20,400 ($22,500 - $2,100).
Phương pháp phân tích các khoản phải thu được dựa trên giả định khoản phải thu nào càng quá hạn thì khả năng khó đòi càng cao, nói một cách khác, đây là cách lập dự phòng dựa vào tuổi nợ. Cách phân tích các khoản phải thu bao gồm những bước sau đây:
Bước 1. Xác định ngày đáo hạn của tất cả các khoản phải thu.
Bước 2. Xác định số ngày quá hạn của những khoản phải thu quá hạn. Đây là số ngày giữa ngày đáo hạn và ngày phân tích.
Bước 3. Xếp nhóm khoản phải thu căn cứ theo số ngày quá hạn. Cách phân chia thời gian quá hạn điển hình như sau:
Không quá hạn
Quá hạn 1–30 ngày
Quá hạn 31–60 ngày
Quá hạn 61–90 ngày
Quá hạn 91–180 ngày
Quá hạn 181–365 ngày
Quá hạn Over 365 ngày
Bước 4. Tính tổng giá trị khoản phải thu của từng nhóm.
Bước 5. Nhân tổng giá trị khoản phải thu của từng nhóm với tỷ lệ % dự kiến khó đòi của từng nhóm.
Bước 6. Tính tổng giá trị khoản phải thu khó đòi ước tính của tất cả các nhóm.
Các bước trên được tổng hợp trong Lịch thu nợ, và toàn bộ quy trình này được gọi là Quy trình tính tuổi nợ.
Ví dụ về một bảng tính tuổi nợ tại một doanh nghiệp được lập trên phần mềm Excel
Theo cách ước lượng dựa vào phân tích các khoản phải thu, tổng trị giá các khoản Nợ khó đòi ước tính vào ngày 31/12/2010 là $26,490. Đây chính là số dư sau điều chỉnh được mong đợi của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi.
So sánh giá trị ước tính $26,490 với số dư chưa điều chỉnh hiện có của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi sẽ giúp kế toán tính toán số tiền cần điều chỉnh cho tài khoản Chi phí nợ xấu là bao nhiêu. Trong trường hợp này, tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi hiện có số dư Có chưa điều chỉnh là $3,250. Do đó, để có số dư Có sau điều chỉnh là $26,490 thì số tiền cần ghi Có trong bút toán điều chỉnh sẽ là $23,240 ($26,490 - $3,250) và đó cũng chính số tiền của bút toán điều chỉnh cho Chi phí Nợ xấu vào cuối kỳ kế toán 31/12/2010. Bút toán điều chỉnh như sau:
31/12 Nợ TK Chi phí nợ xấu 23,240
Có TK Dự phòng Nợ khó đòi 23,240
Ước tính KPT khó đòi ($26,490 - $3,250)
Sau khi chuyển sổ bút toán điều chỉnh trên vào tài khoản sổ cái, tài khoản Chi phí Nợ xấu sẽ có số dư sau điều chỉnh là $23,240, tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi có số dư Có sau điều chỉnh là 26,490 và giá trị khoản phải thu có thể thu hồi (net realizable value) là $213,510 ($240,000 - $26,490). Các tài khoản trên được mô tả cụ thể như sau:
Khi ước lượng giá trị khoản phải thu không thể thu hồi dựa vào việc phân tích khoản phải thu, số tiền của bút toán điều chỉnh phải là một con số khiến cho số dư sau điều chỉnh của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi bằng đúng giá trị đã ước tính.
Ví dụ:
Nếu tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi có số dư Nợ chưa điều chỉnh là $2,100 thì số tiền của bút toán điều chỉnh sẽ là $28,590 (26,490+2,100). Trong trường hợp này, số dư sau điều chỉnh của tài khoản Chi phí nợ xấu sẽ là $28,590. Tuy nhiên, số dư sau điều chỉnh của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi vẫn là 26,490. Sau khi chuyển các bút toán điều chỉnh vào trong tài khoản sổ cái, tài khoản Chi phí Nợ xấu và tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi sẽ như sau:
So sánh hai cách tính Dự phòng Nợ khó đòi:
Cả hai cách trên đều ước tính giá trị khoản phải thu không thể thu hồi. Tuy nhiên, mỗi cách có mục tiêu khác nhau và tập trung vào báo cáo tài chính khác nhau.
Với cách ước tính dựa vào phần trăm doanh thu, Chi phí nợ xấu được đặt làm trung tâm. Cách tính này tập trung vào sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí, do đó, nó nhấn mạnh vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Theo đó, số tiền của bút toán điều chỉnh chính là số tiền ước tính cho Chi phí nợ xấu trong kỳ kế toán và đó cũng chính là số tiền ghi Có cho tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi.
Theo cách ước tính dựa vào việc phân tích khoản phải thu, tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi được đặt làm trung tâm. Việc phân tích khoản phải thu tập trung vào giá trị có thể thực nhận của khoản phải thu và do đó, nó nhấn mạnh vào Bảng cân đối kế toán. Theo đó, số tiền của bút toán điều chỉnh phải là một con số khiến cho số dư sau điều chỉnh của tài khoản Dự phòng Nợ khó đòi bằng đúng giá trị đã ước tính và đó cũng chính là số tiền ghi Nợ cho tài khoản Chi phí Nợ xấu.
So sánh phương pháp Xóa sổ trực tiếp và Dự phòng Nợ khó đòi
|
Phương pháp xóa sổ trực tiếp khoản phải thu |
Phương pháp lập dự phòng Nợ khó đòi |
Chi phí Nợ xấu được ghi nhận |
Khi khoản phải thu của một khách hàng cụ thể đã được xác định là không thể thu hồi được nữa. |
Sử dụng phương pháp ước tính dựa vào:
|
Tài khoản dự phòng Nợ khó đòi |
Không sử dụng tài khoản này |
Có sử dụng tài khoản này |
Đối tượng sử dụng chủ yếu |
Doanh nghiệp nhỏ và những doanh nghiệp ít có khoản phải thu |
Doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp có một lượng lớn khoản phải thu |
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: