CHU KÌ SỐNG SẢN PHẨM (P2)
Trong giai đoạn này, doanh số bắt đầu chững lại, một số đối thủ cạnh tranh nhỏ bắt đầu rút khỏi thị trường. Khách hàng trung thành có xu hướng mua lặp lại hoặc rời bỏ sản phẩm.
Lợi nhuận trong giai đoạn này giảm do cạnh tranh về giá gay gắt giữa các đối thủ cạnh tranh trong khi chi phí tăng do phải thu hút khách hàng mới.
Quyết định Marketing trong giai đoạn này là cố gắng bảo vệ thị phần thông qua việc gia tăng những điểm khác biệt cho sản phẩm và tìm kiếm khách hàng mới. Các công ty sản xuất máy fax phát triển những phiên bản máy fax nhiều chức năng cho phép kết nối với Internet như scanning, copy và in màu. Họ cũng thiết kế máy fax cho các công ty vừa và nhỏ và hiện nay đối tượng khách hàng này chiếm một phần lớn thị phần của các công ty. Ngoài ra, công ty cần gia tăng việc kiểm soát chi phí thông qua cải thiện hiệu quả của chương trình truyền thông và kênh phân phối.
Sản phẩm máy fax bước vào giai đoạn tăng trưởng vào những năm 1990. Vào thời điểm đó, 90% thị phần trên thị trường bị kiểm soát bởi 5 nhà sản xuất lớn: Hewlett – Packard, Brother, Sharp, Lexmark và Samsung sau khi các công ty nhỏ lần lượt rút khỏi thị trường. đến năm 2004, 200 triệu máy fax được bán trên thế giới.
Một số sản phẩm đang ở giai đoạn bão hòa như: nước giải khát, đầu DVD và tivi truyền thống (tivi không có cáp, vệ tinh).
d. Giai đoạn suy thoái
Giai đoạn này bắt đầu khi doanh số sụt giảm mạnh. Đối với máy fax, giai đoạn này bắt đầu năm 2005 và giá giảm dưới 100 đô la. Thông thường, khi sản phẩm bước vào giai đoạn này không phải vì công ty có chiến lược không phù hợp mà do nguyên nhân khách quan là sự thay đổi của môi trường. Chẳng hạn, khi phần mềm xử lí văn bản trên máy tính ra đời đã đẩy những chiếc máy đánh chữ vào chỗ suy thoái hay đầu đĩa kĩ thuật số đang làm điều tương tự với máy đĩa compact hay ngành công nghiệp thu âm. Vậy internet có làm điều này với máy fax?
Sản phẩm bước vào giai đoạn suy thoái không nhận được nhiều sự quan tâm về tài chính và Marketing của các công ty. Các công ty thường có hai hướng cho sản phẩm ở giai đoạn này: (1) xóa bỏ sản phẩm hiện tại hoặc (2) “thu hoạch”.
(1) Xóa bỏ sản phẩm hiện tại: hay rút nó này khỏi danh mục sản phẩm của công ty, đây là một trong các chiến lược mạnh tay của công ty bởi vì trong giai đoạn này vẫn có một vài khách hàng mua sản phẩm do vậy đây không phải là quyết định dễ dàng đối với các công ty. Chẳng hạn như công ty Sanford vẫn tiếp tục chất tẩy giấy Liquid Paper trong khi thời đại của máy đánh chữ đã kết thúc bởi phần mềm xử lí văn bản của máy vi tính.
(2) Thu hoạch: Chiến lược thứ hai của công ty khi sản phẩm bước vào giai suy thoái là vẫn giữ lại sản phẩm nhưng giảm các chi phí Marketing. Sản phẩm vẫn được bán, nhưng đội ngũ bán hàng sẽ không tập trung cho nó nhiều. Mục tiêu của chiến lược này là dựa trên sự yêu cầu của khách hàng, chẳng hạn Cocacola vẫn giữ lại sản phẩm Tab, sản phẩm Cocacola kiêng đầu tiên bởi vì vẫn có một số lượng khách hàng nhỏ trung thành với sản phẩm này, giống như CEO của Coke đã nói:” Nếu khách hàng vẫn còn quan tâm, chúng tôi vẫn sẽ sản xuất vì chúng tôi muốn đảm bảo rằng bất cứ khi nào họ cần, sản phẩm sẽ luôn sẵn có”.
Huỳnh Linh Lan
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: