Sự ra đời và mô hình tổ chức của Ngân hàng Trung ương
1. Sự ra đời
- Trong thời kỳ đầu hoạt động, các ngân hàng thực hiện đồng thời các nghiệp vụ: nhận tiền gửi và cho vay, phát hành giấy bạc ngân hàng vào trong lưu thông, thực hiện các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, đổi tiền...
- Từ thế kỷ 18, nhà nước của các nước đã bắt đầu can thiệp vào hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành giấy bạc của mình vào lưu thông.
- Đến thế kỷ 19, ở các nước có xu hướng ra đời các đạo luật chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất phát hành tiền còn các ngân hàng khác chỉ thuần túy kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. ở Anh năm 1844, nhà nước cấm các ngân hàng tư nhân phát hành tiền và toàn bộ nghiệp vụ phát hành tiền được tập trung vào Anh quốc ngân hàng. Ngân hàng cổ phần tư nhân Pháp thành lập năm 1800, đến năm 1803 được độc quyền phát hành giấy bạc ở Paris đến năm 1948 độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng trên toàn nước Pháp.
- Đầu thế kỷ 20, ở các nước ngân hàng được phép phát hành tiền đều thuộc sở hữu tư nhân, nhà nước không có điều kiện can thiệp vào hoạt động kinh tế thông qua tác động của tiền tệ. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933, các nước tiến hành quốc hữu hóa hoặc thành lập ngân hàng phát hành thuộc sở hữu Nhà nước nhằm nắm trọn quyền phát hành tiền tệ để qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô. Canada: quốc hữu hóa ngân hàng phát hành năm 1938; Đức: 1939; Pháp: 1945; Anh: 1946... từ đó khái niệm Ngân hàng Trung ương được sử dụng thay thế cho khái niệm ngân hàng phát hành.
- Sự khác nhau và giống nhau giữa ngân hàng phát hành và NHTW?
+ Giống: cùng được phát hành tiền vào lưu thông.
+ Khác: NHTW không chỉ phát hành tiền vào lưu thông mà còn thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
Thực tế: một số nước NHTW không hoàn toàn thuộc sở hữu của Nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang tính chất của một Ngân hàng Nhà nước. Ví dụ minh họa: NHTW Nhật Bản là ngân hàng cổ phần theo luật năm 1942 trong đó cổ phần Nhà nước chiếm 55%, cổ phần tư nhân chiếm 45%; ở Mỹ, hệ thống dự trữ liên bang là ngân hàng cổ phần tư nhân.
2. Mô hình tổ chức
* NHTW độc lập với Chính phủ
- Theo mô hình này Chính phủ không được phép can thiệp vào hoạt động của NHTW, đặc biệt đối với chính sách tiền tệ.
Lý do: Chính phủ là người thực thi chính sách tài chính quốc gia, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, do vậy để NHTW trực thuộc chính phủ sẽ bị Chính phủ lạm dụng công cụ phát hành tiền để trang trải sự thiếu hụt của ngân sách dễ gây ra lạm phát và NHTW không thể thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ nhất là mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Do vậy, để khắc phục những nhược điểm trên cần xây dựng NHTW độc lập với Chính phủ.
- Tiêu biểu theo mô hình tổ chức này là hoạt động của hệ thống dự trữ liên bang Mỹ và ngân hàng dự trữ Đức. Cơ quan quản lý cao nhất của hệ thống dự trữ liên bang Mỹ là hội đồng thống đốc bao gồm 7 thành viên, nhiệm kỳ mỗi thành viên là 14 năm và mỗi nhiệm kỳ 4 năm tổng thống được quyền chỉ định 2 thành viên để thượng nghị viện bổ nhiệm, như vậy 5 thành viên còn lại do các Tổng thống tiên nhiệm chỉ định. Ưu điểm của mô hình này là tranh thủ kinh nghiệm của các thành viên, đảm bảo tính khách quan với những người được tuyển chọn có đầy đủ phẩm chất và năng lực; hoạt động và việc ra chính sách là dựa trên thị trường không chịu ảnh hưởng của Tổng thống.
* NHTW phụ thuộc Chính phủ
- Theo mô hình này, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với NHTW thông qua việc bổ nhiệm các cơ quan quản trị và điều hành, can thiệp vào việc thực thi chính sách tiền tệ. Ví dụ minh họa: mô hình NHTW Anh, Pháp.
* Ngân hàng Nhà nước Việt nam là cơ quan của Chính phủ. Hoạt động thu chi tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt nam tuân theo luật Ngân sách Nhà nước -> Chính phủ quản lý và kiểm soát.
* Mô hình trực thuộc Bộ tài chính: Pháp là nước đầu tiên vận hành theo mô hình này nhưng hiện nay các nước trên thế giới không còn áp dụng mô hình này.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: