Nợ ngắn hạn (Current Liabilities) Phần 1
Khoản vay nợ sẽ được ghi nhận là một nghĩa vụ, một khoản nợ phải trả của bên được cấp tín dụng/bên đi vay. Nếu khoản nợ có thời hạn phải trả sau 1 năm thì khoản vay đó sẽ được gọi là khoản vay dài hạn. Ví dụ một khoản vay 30 năm để mua đất đai sẽ được gọi là khoản vay dài hạn. Còn nếu các khoản nợ phải trả trong thời hạn 1 năm sẽ được gọi là Nợ phải trả hiện hành (Nợ phải trả trong ngắn hạn). Những khoản nợ này sẽ được thanh toán bởi tài sản ngắn hạn (current assets).
Các loại nợ phải trả hiện hành bao gồm các khoản phải trả người bán (accounts payable), Nợ dài hạn đến hạn trả trong kỳ (current portion of long-term debt), và thương phiếu phải trả (Notes payable).
Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến khoản phải trả người bán đã được trình bày trong các chương trước, ví dụ như mua chịu hàng hóa và dịch vụ. Ở hầu hết các doanh nghiệp, các khoản phải trả cho người bán chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Nợ ngắn hạn.
Lưu ý: Sự khác biệt giữa khoản phải trả cho người bán (account payable), doanh thu chưa thực hiện (unearned revenue) và chi phí dồn tích (accruals).
Thương phiếu phải trả là một giấy hẹn nợ, cam kết trả nợ gốc và lãi vào một ngày xác định. Thương phiếu phải trả ngắn hạn bao gồm các loại sau:
Ø Là phần nợ dài hạn đến hạn trả trong kỳ hạn 12 tháng tới.
Ø Thương phiếu phải trả ngắn hạn còn được phát hành khi doanh nghiệp có khoản phải trả phát sinh từ việc mua tài sản cho doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp sẽ không trả nợ đúng hạn, do đó, bên cấp tín dụng sẽ yêu cầu doanh nghiệp phải lập thương phiếu nhận nợ và cam kết thanh toán à và đó chính là thương phiếu phải trả và trong thương phiếu phải trả này có bao gồm quy định về việc trả lãi vào ngày thương phiếu đáo hạn.
Thương phiếu phải trả ngắn hạn còn được phát hành khi khoản phải trả đã trở nên quá hạn. Chủ nợ thường yêu cầu doanh nghiệp phát hành một thương phiếu phải trả thay cho khoản phải trả đã quá hạn (giấy trắng mực đen vẫn tốt hơn) và thương phiếu phải trả thường kèm theo lãi vay.» Tin mới nhất:
» Các tin khác: