Lượng khí thải Sulfur Dioxide tối ưu - Phân tích lợi ích và chi phí
Đạo luật Không Khí Sạch năm 1990 đã được Tổng Thống Bush ký ban hành thành luật vào ngày 15 tháng Mười Một, 1990, cho thấy sự cải cách luật pháp quan trọng đầu tiên của quốc gia trong hai thập kỷ quản lý kiểm soát ô nhiễm.
Một trong những nội dung của dự luật đề cập đến vấn đề về mưa axit mà yêu cầu phải giảm bớt lượng khí thải sulfur dioxide (SO2) khoảng 10 triệu tấn mỗi năm trước năm 2000. Dự luật cũng xác định rõ 111 nhà máy điện có lượng thải SO2 lớn nhất. Những nhà máy này phải hoàn thành mục tiêu giảm một nửa lượng ô nhiễm vào năm 1995 và phải giảm hoàn toàn lượng ô nhiễm vào năm 2000.
“Mưa axit” chính là mật độ đậm đặc của axit trong nước mưa chủ yếu là do lượng khí thải SO2 từ các nhà máy nhiệt điện sử dụng than. Phản ứng của khí Sulfur dioxide và hydrogen peroxide trong các đám mây tạo thành acid sulfuric mà sẽ hòa tan vào nước mưa. Ban đầu, các nhà làm chính sách và các chuyên gia môi trường nghĩ mưa axit là nguyên nhân tiêu diệt các sinh vật dưới nước đang sinh sống trong các hồ ở vùng Đông
Bắc nước Mỹ và nhiều nơi ở Canada. Thêm vào đó, các chuyên gia môi trường quan tâm đến sự tàn phá các khu rừng, đất nông nghiệp và các tòa nhà. Người ta cũng cho rằng việc thải khí đã làm hạn chế tầm nhìn của bầu khí quyển và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Để đánh giá thiệt hại của mưa axit, năm 1980 Quốc Hội đã phê chuẩn công trình nghiên cứu có giá trị 500 triệu USD và thực hiện trong 10 năm, gọi là Chương Trình Đánh Giá Mưa Axit Quốc Gia (NAPAP). Theo kết quả nghiên cứu của chương trình NAPAP, ảnh hưởng và thiệt hại của các trận mưa axit nhỏ hơn nhiều so với dự đoán ban đầu của các
nhà môi trường. Số lượng hồ bị mưa axit tàn phá ít hơn, mưa axit có vẻ như không tác động lớn đến nông nghiệp và các khu rừng cũng chỉ bị thiệt hại rất nhỏ. Một số nghiên cứu nhận thấy các lợi ích thẩm mỹ khi giảm lượng khí thải khí SO2. Mặc dù việc kiểm soát khí SO2 mang lại một số lợi ích nhưng phạm vi ảnh hưởng của lợi ích này chưa được thừa nhận rộng rãi. Paul Portney dự báo lợi ích của việc kiểm soát khí SO2 theo Đạo Luật Không Khí Sạch sẽ ở vào khoảng từ 2 tỷ USD đến 9 tỷ USD hàng năm.
Portney cũng ước tính chi phí của việc tuân theo Đạo Luật này sẽ lớn hơn 30 tỷ USD mỗi năm (và sẽ tăng mạnh vào năm 2000). Chi phí này không bao gồm các chi phí xã hội trực tiếp khác dùng để kiểm soát ô nhiễm như thất nghiệp, giá cả cao hơn, chất lượng sản phẩm giảm xuống. Dựa trên những chi phí và lợi ích này Portney nhắc nhở: “Ngay cả khi những dự báo này chính xác hơn nữa, … các chi phí có thể lớn hơn lợi ích với một mức biên đáng kể”. Tại sao lại như vậy? Có phải các nhà làm chính sách của chính phủ không hiểu cách phân tích cận biên? Cuối cùng, tại mức cho phép xả thải khí SO2 như trong đạo luật thì không chỉ chi phí cận biên của việc giảm ô nhiễm sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích cận biên, mà tổng chi phí còn lớn hơn tổng lợi ích – nghĩa là, lợi ích ròng của việc kiểm soát ô nhiễm là âm.
Ông Portney cho rằng có việc đề xuất mức kiểm soát ô nhiễm này là do hiểu sai về cả lợi ích và chi phí của kiểm soát khí thải. Không cần quan tâm đến việc một nhà làm chính sách nhận thức ra sao về chi phí và lợi ích thì mức độ tối ưu của khí thải là mức mà khi ta chi phí nhiều hơn một đồng cho việc giảm sẽ đưa đến chính xác thêm một đồng lợi ích tang thêm. Các nhà làm chính sách sẽ tránh được việc bị lôi cuốn vào khả năng kiểm soát khí thải chỉ vì việc đánh giá sai lầm về sự tăng lên trong tổng lợi ích khi giảm khí thải nếu họ so sánh (một cách đúng đắn) lợi ích cận biên với chi phí cận biên. Đây chỉ là một ví dụ của chính sách có thể tạo ra lợi ích do sử dụng phân tích lợi ích và chi phí cận biên.
Vào tháng Tư 1992, chính phủ đã có một số cải cách khi sử dụng các nguyên tắc tối ưu để nỗ lực giảm ô nhiễm không khí. Vào ngày 14 tháng Tư, 1992, tờ The Wall Street Journal viết, “ngày càng nhiều các nhà quản lý tin rằng các quy định về “mệnh lệnh và kiểm soát” – những thứ cho phép mỗi nhà máy làm ô nhiễm môi trường rất nhiều nay không còn được ô nhiễm thêm nữa – đang bị thất bại khi chúng ngăn chặn sự phá hủy môi trường. Các nhà kinh tế thúc giục những cơ quan này kiểm soát bầu khí quyển của Trái Đất để đầu tư cho các thị trường và để cho các thị trường giải thoát thể giới khỏi mưa axit và sự ấm lên toàn cầu”. Theo một kế hoạch mới đây, “các nhà máy, các cơ sở hóa lọc, các nhà sản xuất sẽ mua và bán quyền xả thải, điều được cho là sẽ làm giảm nhẹ sự chuyển đổi các giới hạn khí thải ngày càng nghiêm khắc”.
Các nhà nghiên cứu môi trường và những người khác phản đối kế hoạch mới này nhưng những đề xuất này vẫn được thực hiện; dù cho các ý kiến phản đối lập luận rằng những quy định truyền thống không tạo động lực cho người gây ô nhiễm giảm khí thải thấp hơn mức cho phép. Họ nói rằng các doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh mạnh mẽ để tìm ra các kỹ thuật tiên tiến nhất và rẻ nhất để cắt giảm ô nhiễm. Tại thời điểm đó, một số bang – hầu hết là ở California - đang thực hiện chính sách bù đắp thương mại. Kết quả là “ô nhiễm không khí ở California ít hơn”. Theo Phó Chủ tịch của một doanh nghiệp chuyên hỗ trợ cho các công ty đối phó với việc cắt
giảm của Đạo Luật Không Khí Sạch thì tác động thuần là “không khí sạch hơn.
Điều này thay đổi toàn bộ kết quả tính toán hành động của doanh nghiệp: họ cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy như thế nào, họ sẽ cải thiện vốn ra sao, chi phí hoạt động các nhà máy là bao nhiêu, tất cả mọi thứ”.
Nói ngắn gọn, sẽ hiệu quả hơn cho chính phủ nếu đặt ra lượng khí thải và sau đó để cho các doanh nghiệp sử dụng các nguyên tắc tối ưu hóa, xác định cách thức chi phí hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu này. Người ta cũng có thể hi vọng chính phủ sẽ tính toán chi phí – lợi ích khi đặt ra các mục tiêu.
Nguyễn Lê Giang Thiên, dịch từ sách Kinh tế trong quản trị, Nhà xuất bản McGrawhills, 8e.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: