Trắc nghiệm khả năng thể chất của ứng viên
Mặc dù kỹ thuật tự động và những cải tiến khác trong công nghệ đã lọai bỏ hoặc sửa đổi nhiều về nhu cầu thể chất được đòi hỏi ở những nhiệm vụ nghề nghiệp.,thì nhiều công việc vẫn đòi hỏi khá cao về khả năng thể chất hoặc khả năng vận động thần kinh. Trong một vài trường hợp , những trắc nghiệm khả năng thể chất có thế liên quan đến không chỉ hiệu suất dự đoán mà còn liên quan đến những thương tổn nghề nghiệp cũng như ốm yếu tàn tật. Có 7 loại trắc nghiệm trong phạm vi này : những cái mà đánh giá (1) Căng thẳng cơ bắp ,(2) Sức mạnh cơ bắp ,(3) Độ bền cơ băp ,(4) Sức chịu đựng tim mạch ,(5) Tính linh hoạt ,(6) Sự thăng bằng ,và (7) Sự phối hợp.
Những hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn cho các loại trắc nghiệm này ở những công việc nhất định là khá mạnh . Thật không may, những trắc nghiệm sức mạnh một cách cụ thể có khả năng tạo nên những tác động có hại lên một số ứng viên khuyết tật và nhiều ứng viên nữ .Ví dụ ,khoảng 2/3 điểm số của tất cả ứng viên nam cao hơn điểm số của ứng viên nữ trong những trắc nghiệm về sức mạnh cơ bắp.
Bởi những vấn đề này mà có 2 câu hỏi chính được đặt ra trong việc quyết định có nên sử dụng những loại trắc nghiệm này hay không .Thứ nhất , là khả năng thể chất cần thiết để thực hiện công việc và nó được đề cập đủ nổi bật trong việc mô tả công việc hay không ?Cả Luật Nhân quyền và ADA đều không đòi hỏi các ông chủ thuê những nhân viên mà không thể thực hiện những chức năng công việc cần thiết ,và cả hai chấp nhận một mô tả công việc bằng văn bản làm bằng chứng của những chức năng thiết yếu của công việc.Thứ hai , là có khả năng xảy ra việc mà không thực hiện công việc một cách thích đáng làm dẫn đến một số nguy cơ đối với an toàn hoặc sức khỏe của ứng viên, những bạn đồng nghiệp , hay những khách hàng hay không? Cụm từ “ đe dọa trực tiếp” của ADA đã làm sáng tỏ rằng tác động xấu chống lại những người khuyết tật được cam đoan trong điều kiện như vậy.
Trắc nghiệm kiến thức nhằm phân biệt các cá nhân dựa trên trí tuệ của họ hơn là khả năng thể chất .Mặc kiến thức có nhiều khía cạnh khác nhau, mặc dù chúng ta sẽ chỉ tập trung vào 3 loại chiếm ưu thế .Nhận thức bằng lời nhắc đến khả năng của một người để hiểu và sử dụng văn bản và ngôn ngữ nói. Khả năng định lượng liên quan đến tốc độ và độ chính xác mà một người có thể giải quyết những vấn đề số học ở tất cả các loại.Khả năng lập luận , một khái niệm rộng hơn , đề cập đến khả năng của một người để phô bày ra cách giải quyết đối với nhiều vấn đề khác nhau .
Một số công việc đòi hỏi chỉ một hoặc hai người ở những khía cạnh này của kiến thức .Dưới những điều kiện , việc duy trì tình trạng ngăn cách trong số những khía cạnh là thích hợp.Ví dụ ,những yêu cầu bằng lời làm liên tưởng đến nhiều công việc ở Mỹ .Kinh tế đã tăng trong nhiều năm ,nhưng điều này đã xảy ra một thời gian khi chúng ta đã thực sự chứng kiến sự giảm về điểm số trên các trắc nghiệm tiêu chuẩn cái mà đo lường những kỹ năng này.Ví dụ ,một nghiên cứu của hơn 400 công ty lớn cho thấy rằng cũng 30% ứng viên cho những vị trí thấp ( mới vào nghề ) có điểm số đọc và viết rất tệ điều đó nghĩa là không thể đưa họ vào công việc mà không đào tạo.Nếu điều này chỉ là khả năng nhận thức liên quan đến công việc ,thì nó còn là điều duy nhất nên được sử dụng để đưa ra những quyết định.Tuy nhiên , nhiều công việc có nhiều đòi hỏi phức tạp nhất, nếu không phải tất cả, của các khía cạnh, và do đó một trắc nghiệm tổng quát thường tốt như các trác nghiệm của các khía cạnh riêng biệt.Những trắc nghiệm thương mại tin cậy một cách cao nhất cái mà đo lường các loại khả năng có sẵn một cách rộng rãi , và họ là những người dự báo hợp lệ tổng quát về cách thực hiện công việc ở nhiều loại khác nhau của những tình huống xảy ra ,bao gồm cả những đất nước rộng lớn khác nhau .Tính hiệu lực của những loại này của các trắc nghiệm là liên quan đến những công việc phức tạp đòi hỏi sự năng động và thay đổi theo thời gian và vì vậy đòi hỏi khả năng thích ứng trên mỗi phần nhiệm vụ công việc .
Một trong những điều trở ngại chính đối với những trắc nghiệm này đó là chúng có tác động bất lợi điển hình lên một số nhóm chiếm thiểu số.Thực vậy , quy mô của những khác biệt là quá lớn đến nỗi một số đã tán thành việc từ bỏ những loại trắc nghiệm nhằm đưa ra quyết định đánh giá những người sẽ được chấp nhận chắc chắn cho công việc hay trường học . Khái niệm về quy tắc chủng tộc ,được ám chỉ trước đó, là sinh ra mong muốn sử dụng những trắc nghiệm có tính thiết thực cao trong một chừng mực nhằm tránh những ảnh hướng có hại . Mặc dù quy tắc chủng tộc được thực hiện bất hợp pháp bởi những phần chỉnh sửa đạo luật gần đây đối với Luật Nhân quyền ,một số tán thành việc sử dụng các nhớm để cả hai đạt đến những lợi ích của trắc nghiệm và giảm đến mức tối thiểu những tác hại xấu của nó . Khái niệm của phân nhóm cho thấy rằng những nhóm giống nhau mà điểm số không giống ở một số lượng nhỏ thì tất cả được coi là cùng một điểm số . Sau đó , trong phạm vi bất kỳ nhóm nào , cách đối xử ưu đãi được đưa ra đối với một thiểu số .Hầu hết những người quan sát cảm thấy cách đối xử ưu ái của những số nhỏ hơn là có thể chấp nhận được khi điểm số của họ ngang nhau ,và phân nhóm mở rông một cách đơn giản khái niệm của những cái cấu thành điểm số ngang bằng.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: