Phân tích kiến trúc
Ta có 5 góc nhìn khác nhau:
1. Góc nhìn người sử dụng – ca sử dụng (use case view)
Góc nhìn này đứng trước mọi góc nhìn khác. Nó hình thành từ giai đoạn phân tích yêu cầu và được sử dụng để điều khiển và thúc đẩy phần việc còn lại của thiết kế. Nó mô tả các hành vi hệ thống theo cách nhìn của khách hàng, phân tích viên và kỹ sư kiểm tra, thử nghiệm. Góc nhìn ca sử dụng chức các tác nhân, use case, biểu đồ use case (khía cạnh tĩnh của góc nhìn) trong hệ thống. Chúng cũng có thể bao gồm vài biểu đồ trình tự, biểu đồ cộng tác (khía cạnh động của góc nhìn) và gói. Góc nhìn ca sử dụng tập trung vào mức cao của cái hệ thống sẽ làm, không quan tâm đến hệ thống làm như thế nào. Chúng không xác định tổ chức của hệ thống.
Khi dự án bắt đầu, khách hàng, phân tích viên và người quản lý dự án làm việc với use case, biểu đồ use case và tài liệu use case để thống nhất về hệ thống. Một khi khách hàng đã nhất trí về các use case và tác nhân thì họ sẽ nhất trí về phạm vi hệ thống. Hệ thống được tiếp tục phát triển bằng góc nhìn logic.
2. Góc nhìn logic (logical view)
Góc nhìn logic biểu diễn tổ chức của các lớp có ý nghĩa nhất và các quan hệ của chúng với nhau. Góc nhìn logic tập trung vào hệ thống cài đặt hành vi trong use case như thế nào. Nó bao gồm các lớp, biểu đồ lớp, biểu đồ đối tượng (khía cạnh tĩnh của góc nhìn) và các gói. Hầu hết mọi người trong dự án đều quan tâm đến góc nhìn logic.
Thông thường đội ngũ phát triển phần mềm tiệm cận góc nhìn logic theo 2 bước. Bước thứ nhất là nhận ra các lớp phân tích (analysic class). Các lớp này độc lập với ngôn ngữ. Trung UML các lớp này được biểu diễn bằng các biểu tượng sau:
Lớp phân tích có thể xuất hiện cả ở trong biểu đồ tương tác của góc nhìn use case. Một khi đã nhận ra các lớp phân tích thì đội ngũ phát triển phần mềm chuyển chúng sang lớp thiết kế (design class). Đó là những lớp phụ thuộc ngôn ngữ.
Góc nhìn logic tập trung vào cấu trúc logic của hệ thống. Trong góc nhìn này ta sẽ nhận ra các bộ phận hệ thống, khảo sát thông tin và hành vi, khảo sát quan hệ giữa các bộ phận. Cần cẩn thận khi gán thông tin và hành vi cho lớp, nhóm các lớp, khảo sát quan hệ giữa các lớp và gói để đảm bảo khả năng sử dụng lại.
3. Góc nhìn cài đặt (component view)
Góc nhìn cài đặt (góc nhìn thành phần) là module vật lý hay tệp mã chương trình để lắp ráp thành hệ thống vật lý. Góc nhìn thành phần bao gồm: thành phần, biểu đồ thành phần và gói.
Người quan tâm nhất đến góc nhìn thành phần là người có trách nhiệm quản lý mã chương trình, dịch chương trình và triển khai ứng dụng. Một vài thành phần là thư viện, một số khác là mã chương trình thực thi (.exe) và thư viện (.dll).
4. Góc nhìn triển khai (deployment view)
Góc nhìn này tập trung vào phân bổ vật lý của tài nguyên và phân bổ nhiệm vụ giữa các tài nguyên. Góc nhìn triển khai liên quan đến triển khai vật lý của hệ thống, khác với kiến trúc logic. Thí dụ, hệ thống có kiến trúc 3 tầng logic, bao gồm giao diện, logic tác nghiệp và logic CSDL tác biệt nhau. Nhưng triển khai có thể chỉ có 2 tầng, trong đó logic tác nghiệp và logic CSDL trên cùng một máy. Góc nhìn triển khai bao gồm tiến trình (luồng thực hiện trong vùng nhớ riêng), bộ xử lý và thiết bị.
Góc nhìn triển khai chi ra các tiến trình và thiết bị trên mạng và các kết nối vật lý giữa chúng. Biểu đồ triển khai cũng hiển thị tiến trình và chỉ ra tiến trình nào chạy trên máy nào.
5. Góc nhìn hành vi (behavior view)
Góc nhìn hành vi mô tả khía cạnh động của hệ thống, mô tả các tương tác và cộng tác giữa các phần tử của hệ thống.
Góc nhìn này gồm các biểu đồ: Biểu đồ tuần tự (sequence diagram), biểu đồ cộng tác (collaboration diagram), biểu đồ hoạt động (activity diagram) và biểu đồ trạng thái (state diagram).
Trương Đình Huy
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: