Bài 2: Giá xăng và cơ chế ổn định từ gốc
Bài 2: Giá xăng và cơ chế ổn định từ gốc
Giá xăng tại Việt Nam về cơ bản giá trong nước phụ thuộc vào giá nhập khẩu. Thế nhưng giá nhập khẩu và giá bán tại Việt Nam được hình thành trên những yếu tố gì và đã hợp lý chưa? Đây là vấn đề còn nhiều điểm chưa rõ ràng, gây nhiều tranh cãi và khiến người tiêu dùng bức xúc
Lập kho dự trữ
Về kho dự trữ, chúng ta cần nghiên cứu nhu cầu, điều kiện của ba khu vực Bắc, Trung, Nam. Nếu có thể sẽ phân bố xây dựng kho chứa đủ lớn ở ba khu vực. Giả sử theo quy định hiện hành thì mức dự trữ phải tối thiểu là đủ cung 30 ngày liên tục cho thị trường, tức tương đương 1 triệu tấn; thì chúng ta có thể xây dựng các kho lớn đủ chứa trên dưới 500 ngàn tấn tại mỗi khu vực. Khi có trong tay một lượng hàng như vậy, chúng ta hoàn toàn không sợ bị DN thao túng hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường trong và ngoài nước. Và như vậy chúng ta tránh được hiện trạng: Nhà nước không biết DN tồn kho bao nhiêu, khan hàng là thật hay giả. Nhiều khi giá thế giới rất rẻ nhưng DN không mua vì họ kêu tồn kho. Nhưng khi giá thế giới cao, họ lại cứ mua vì kêu hết hàng.
Ngoài cách xây dựng các tổng kho, Nhà nước có thể dùng kho ngoại quan dự trữ. Kho ngoại quan cũng của Nhà nước nhưng hàng ở đây là chưa tính thuế nên càng có lợi trong điều tiết giá cả. Với cả một lĩnh vực kinh tế quan trọng như vậy thì chắc chắn việc xây dựng mấy kho dự trữ không phải chuyện quá khó.
Mua hàng đấu thầu
Nhà nước có thể thông qua hình thức nào đó như ủy quyền cho một hoặc vài đơn vị chuyên nhập khẩu. Họ sẽ phải tổ chức đấu thầu quốc tế mỗi năm khoảng trên dưới chục lần với khối lượng lớn. Khi đấu thầu công khai, đương nhiên, DN đầu mối sẽ phải công khai mức giá nhập hàng với toàn thị trường, toàn dân. Và giá mua qua đấu thầu chắc chắn có lợi hơn giá mua lẻ tay đôi, khép kín. Hàng về được chia cho các tổng kho.
Các đơn vị nhập khẩu thì không được bán lẻ mà lại phải tổ chức đấu thầu bán buôn cho các đơn vị phân phối. Đấu thầu trong nước cần chia ra từng gói thầu quy mô khác nhau để khách hàng lớn nhỏ đều có điều kiện tham gia bình đẳng. Cứ 10 ngày hoặc 20 ngày/lần DN nhập khẩu tổ chức đấu thầu với các gói từ 1000 tấn trở lên.
Trên cơ sở giá nhập khẩu minh bạch qua đấu thầu quốc tế, tính được thuế và phí, cộng thêm tỷ lệ lợi nhuận và chi phí hợp lý chung cho DN… thì việc định ra giá trần cho đấu thầu trong nước là rất dễ và minh bạch. Đấu thầu ở đây có tính chất trái với khi DN đấu thầu nhập khẩu. Đó là khi đi mua thì đơn vị nào bán rẻ nhất ta mua. Nhưng khi về nước, đơn vị nào bỏ giá trần thấp nhất, ta bán. Họ được mua xăng dầu trực tiếp từ Nhà nước. Như thế giá bán lẻ sẽ là giá bán lẻ thấp nhất cho dân.
Trong điều kiện đó, DN lớn chưa chắc đã thắng thầu và DN nhỏ hoàn toàn có thể thắng thầu vì họ tiết kiệm chi phí, linh hoạt được nhiều mặt. Ví dụ DN nhỏ, chỉ chứa được 5- 10 ngàn tấn nhưng có mạng lưới tốt, bộ máy gọn nên khi nhập hàng về, họ đẩy thẳng xuống đại lý, không chịu chi phí tồn kho… Như vậy, việc bán lẻ sẽ được tách ra để các DN tự do cạnh tranh bình đẳng. DN nhập khẩu thì chỉ được nhập khẩu, không được bán lẻ như hiện nay.
Hình thức này còn đảm bảo được tính khách quan, thị trường hóa lành mạnh trong kinh doanh có điều tiết của Nhà nước hơn cơ chế hiện tại.
Theo cơ chế hiện nay, để quản lý, Nhà nước đang can thiệp vào “hộp đen” chi phí và lợi nhuận của DN. Nhưng nếu áp dụng cơ chế mới nói trên thì Nhà nước không cần can thiệp. Lãi và chi phí của DN bán lẻ trong nước là câu chuyện của DN. Nhà nước chỉ cần khống chế giá trần. Tất nhiên trong giá trần phải có tỷ lệ để DN có lãi. Điều này hoàn toàn có thể tính được vì giá nhập có, thuế phí công khai, tính thêm các chi phí khác thì ra giá trần bán lẻ. Như vậy, cơ chế phân phối bán lẻ trong nước hoàn toàn cạnh tranh. Đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
Như vậy, với việc áp dụng phương thức tạm trữ mới này, chúng ta hy vọng rằng những bất cập sẽ được khắc phục và người nông dân sẽ có lợi hơn từ mức giá sàn của Chính phủ.TDU
Đình Uyên
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: