Phát hành cổ phiếu và kế toán phát hành cổ phiếu tại công ty cổ phần ở Mỹ (Phần 2)
Phát hành cổ phiếu và kế toán phát hành cổ phiếu tại công ty cổ phần ở Mỹ (Phần 2)
Hoàng Anh Thư
3. Phát hành Cổ phiếu thường
Cổ phần thường có thể là loại có mệnh giá (par value) hoặc không có mệnh giá (no par value).
3.1. Cổ phiếu có mệnh giá
Mệnh giá của cổ phần được ghi rõ trong điều lệ của công ty và phải được thể hiện trên giấy chứng nhận sở hữu cổ phần (stock certificate). Mệnh giá có thể là $0.01, $5, $100 hoặc bất kỳ giá trị nào cũng được tùy theo các nhà sáng lập công ty quy định. Ví dụ, mệnh giá của cổ phần thường của Google là $0.001 mà thôi. Nhìn chung thì mệnh giá của cổ phần thường có xu hướng thấp hơn mệnh giá của cổ phần ưu đãi bởi vì cổ phần ưu đãi chi trả cổ tức cố định là một tỷ lệ % của mệnh giá cổ phần.
Mệnh giá là một phần của vốn góp (capital stock) của công ty và mệnh giá cấu thành nên vốn pháp định của công ty (legal capital). Vốn pháp định là số vốn công ty không được sử dụng trừ khi công ty phá sản. Công ty không được công bố cổ tức nếu việc công bố này khiến cho vốn chủ sở hữu (Shareholders’ equity) thấp hơn vốn pháp định (Legal Capital). Do đó, mệnh giá (par value) là phần vốn dự trữ tối thiểu để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ. Khi phát hành cổ phiếu, nếu giá phát hành cao hơn mệnh giá thì số tiền chênh lệch này sẽ được ghi nhận là Thặng dư vốn cổ phần (Paid-in Capital in excess of par hoăc Additional Paid-in Capital) và đó cũng chính là một phần của vốn góp của cổ đông.
3.2. Cổ phiếu không mệnh giá
Công ty phát hành cổ phiếu không mệnh giá vì các lý do sau đây. Một là, theo sự hiểu không thấu đáo của một số cổ đông, họ sẽ tùy tiện đánh đồng mệnh giá (par value) với thị giá của cổ phiếu àdo đó nếu phát hành cổ phiếu có mệnh giá, các nhà đầu tư dễ hiểu nhầm. Hai là, hầu hết các tiểu bang đều không cho phép phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá, do đó nếu giá cổ phiếu của công ty không thể phát hành cao hơn mệnh giá thì công ty chẳng thể huy động vốn được. Như vậy, so với cổ phiếu có mệnh giá, cổ phiếu không mệnh giá linh hoạt hơn trong việc huy động vốn, công ty muốn bán với giá nào cũng được miễn là công ty thấy mức giá đó chấp nhận được mà không bị ràng buộc bởi giá bán tối thiểu (par value).
Luật của các tiểu bang thường quy định trong trường hợp cổ phiếu không mệnh giá thì các công ty phải đưa ra một mức giá trị ấn định (stated value) cho mỗi cổ phần mà công ty phát hành và giá trị ấn định này không cần phải dính dáng gì đến giá thị trường của cổ phiếu. Giá trị ấn định thông thường sẽ do chính hội đồng quản trị công ty đặt ra trừ khi tiểu bang có quy định về một mức giá trị ấn định tối thiểu. Giá trị ấn định này có thể được đặt ra trước hoặc sau khi cổ phiếu phát hành tùy theo ý muốn của hội đồng quản trị trừ khi luật tiểu bang có quy định khác. Cũng giống như mệnh giá (par value), giá trị ấn định (stated value) được dùng để tạo thành vốn pháp định cho doanh nghiệp. Nếu cổ phiếu phát hành không có mệnh giá lẫn không có giá trị ấn định thì toàn bộ số tiền thu được từ việc phát hành cổ phiếu này sẽ được sung vào vốn pháp định. Cho dù tiểu bang có quy định về việc phải đặt ra một mức giá trị ấn định hay không thì để thuận tiện, hội đồng quản trị vẫn thường đặt giá trị ấn định cho cổ phiếu của mình. Lưu ý, đây là loại cổ phiếu không mệnh giá, nên giá trị ấn định nếu có cũng không bao giờ được thể hiện trên bề mặt của cổ phiếu, giá trị này chỉ có trong sổ sách kế toán của công ty mà thôi và được kế toán tương tự như mệnh giá (par value).
Ngày nay, loại cổ phiếu có mệnh giá đang ngày một ít dần và thay vào đó là cổ phiếu không mệnh giá.
4. Kế toán phát hành cổ phiếu
4.1. Kế toán khi phát hành cổ phiếu có mệnh giá
Khi công ty phát hành cổ phiếu có mệnh giá, tài khoản vốn góp (capital stock) được sử dụng thường là Common Stock hoặc Preferred Stock. Các tài khoản này sẽ được ghi Có theo giá trị mệnh giá bất kể là số tiền nhận được từ việc phát hành cao hơn hay thấp hơn mệnh giá
Nếu giá phát hành cao hơn mệnh giá (mà thông thường là như vậy), thì số tiền thặng dư sẽ được theo dõi trên tài khoản Paid in Capital in excess of Par – Common Stock hoặc Paid in Capital in excess of Par – Preferred Stock. Một số tài liệu khác thì ta có thể sử dụng tài khoản Additional Paid in Capital.
Dr Cash
Cr Common Stock hoặc Cr Preferred Stock
Cr Paid in Capital in excess of Par – Common Stock hoặc Preferred Stock
Nếu giá phát hành thấp hơn mệnh giá, chúng ta sẽ sử dụng tài khoản Discount on Capital Stock, chúng ta ghi Nợ tài khoản này cho phần chênh lệch.
Dr Cash
Dr Discount on Capital Stock
Cr Common Stock
Tuy nhiên, điều này hiếm khi xảy ra vì việc phát hành dưới mệnh giá là vi phạm pháp luật theo quy định ở nhiều tiểu bang.
4.2. Kế toán cho Cổ phiếu không mệnh giá
Lưu ý: Khi cổ phiếu không mệnh giá được đặt/gán cho một giá trị ấn định thì giá trị ấn định này sẽ đóng vai trò như mệnh giá trong việc làm vốn pháp định cho doanh nghiệp
Hầu hết các tiểu bang đều quy định rằng tất cả hay một phần số tiền thu được từ việc phát hành cổ phiếu không mệnh giá đều trở thành vốn phát định. Mục tiêu của quy định này là nhằm bảo vệ tài sản của công ty cho các chủ nợ.
Nếu công ty phát hành cổ phiếu thường không mệnh giá thì toàn bộ số tiền thu được từ việc phát hành sẽ được định khoản như sau:
Dr Cash
Cr Common Stock
Bởi vì cổ phiếu này không mệnh giá hoặc không có giá trị ấn định nên toàn bộ số tiền sẽ được ghi có cho tài khoản Common Stock và là một phần vốn pháp định cho công ty.
Nếu cố phiếu không mệnh giá mà có giá trị ấn định thì chúng ta sẽ kế toán như trường hợp cổ phiếu mệnh giá
Dr Cash
Cr Common Stock
Cr Paid in capital in excess of stated value – Common Stock
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: