Ngân hàng trung ương trong thế giới ngày nay
Hoàng Anh Thư
Ngân hàng trung ương (NHTW) khởi đầu chính là ngân hàng của chính phủ và theo thời gian ngân hàng trung ương còn thực hiện thêm nhiều chức năng khác nữa. Một ngân hàng trung ương hiện đại không chỉ quản lý (manage) tài chính cho chính phủ mà còn cung cấp hàng loạt các dịch vụ cho ngân hàng thương mại. Do đó ngân hàng trung ương chính là ngân hàng của các ngân hàng. Hãy xem xét
chức năng của NHTW nhé
1. NGÂN HÀNG CỦA CHÍNH PHỦ
Chính phủ có nhu cầu tài chính của riêng mình. Lịch sử cho thấy, một số vị vua chúa thành lập ngân hàng trung ương nhằm mục đích tài trợ cho chiến tranh, một số vị khác chẳng hạn như hoàng đế Napoleon thành lập ngân hàng trung ương nhằm mục đích ổn định hệ thống kinh tế và tài chính của đất nước mình.
Các ngân hàng trung ương xuất hiện sớm nhất vào cuối những năm 1600. Tuy nhiên, thời đó, số lượng NHTW rất hiếm hoi. Mãi đến năm 1900, thế giới chỉ có 18 quốc gia có ngân hàng TW mà thôi. Phải đến thế kỷ 20, ngân hàng TW mới phát triển nhiều, người ta gọi đây là hiện tượng của thế kỷ 20 (20th- century phenomenon). Ngay cả Hoa Kỳ, mãi đến năm 1914, Cục dự trữ liên bang mới bắt đầu đi vào hoạt động. Khi tầm quan trọng của chính phủ và của hệ thống tài chính ngày càng tăng thì nhu cầu phải có một ngân hàng trung ương cũng tăng theo. Ngày nay, thật khó mà tưởng tượng một quốc gia không có ngân hàng TW của chính mình.
Là ngân hàng của chính phủ,ngân hàng tw có vị trí đặc quyền đặc lợi (privileged position). Đó là độc quyền phát hành tiền. Monopoly on the issuance of currency. Ngân hàng TW tạo tiền. Về mặt lịch sử, tiền do NHTW được đánh giá đáng tin cậy hơn tiền do vua, nữ hoàng phát hành bởi vì các vị vua chúa thường có xu hướng ko thanh toán các khoản nợ, do đó, tiền do các vị này không có giá trị. Ngược lại, các ngân hàng TW ngay từ buổi đầu đã có ý thức giữ một lượng tiền dự trữ đủ lớn để thanh toán vàng cho khách hàng khi khách hàng xuất trình thương phiếu. Người dân phải có niềm tin vào tiền mà họ sử dụng. Ngày nay, Cục dự trữ liên bang có độc quyền phát hành đồng dollar Mỹ.
Với khả năng in tiền, ngân hàng có thể kiểm soát tiền và tín dụng của nền kinh tế bằng cách điều chỉnh lãi suất ngắn hạn. hoạt động này được gọi là chinh sách tiền tệ (monetary policy). Ngày nay, NHTQ sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định sự phát triển của nền kinh tế và lạm phát. Chính sách mở rộng (expansionary policy) thông qua việc giảm lãi suất (lower interest rate) sẽ giúp tăng trưởng và lạm phát trong ngắn hạn, trong khi chính sách thắt chặt sẽ hạn chế tăng trưởng và lạm phát. Chúng ta sẽ tìm hiểu về cơ chế của chính sách tiền tệ một cách chi tiết hơn trong những chương sau. Hiện tại chỉ cần nhớ rằng, thông qua chính sách tiền tệ ngân hàng tw có thể kiểm soát được tiền (money) và tín dụng (credit) của nền kinh tế (economy).
Tại sao một quốc gia muốn có chính sách tiền tệ của riêng mình. ở mức độ cơ bản nhất, in tiền là một hoạt động kinh doanh cực kỳ có lãi. Chi phí in một tờ $100 chỉ chừng vài cent thôi nhưng ta có thể lấy tờ $100 để mua lấy hàng hóa và dịch vụ trị giá $100. Vì thế việc một chính phủ muốn có sự độc quyền trong việc in tiền giấy là điều dễ hiểu và lợi nhuận từ việc in tiền sẽ được sử dụng cho những chính sách công có ích cho xã hội.
Các quan chức chính phủ đều biết rằng việc mất kiểm soát trong việc in tiền đồng nghĩa với việc mất kiểm soát lạm phát. Tăng tiền với tốc độ cao sẽ dẫn đến lạm phát cao. Đó là lý do tại sao các nước cộng hòa thuộc liên bang Xô-viết trước đây cần phải thành lập NHTW của riêng mình. Sau vụ sụp đổ của các nước thuộc khối Xô-viết, đồng Rúp của Nga lưu thông trong toàn bộ khu vực và ngân hàng TW của CHLB Nga kiểm soát số lượng Rúp in ra. Tuy nhiên, việc quản lý này không được tốt lắm, do đó đến năm 1992 thì tỷ lệ lạm phát trong khu vực đồng Rúp đã vượt quá 1,000%/năm. Và chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hệ thống tiền tệ này bị sụp đổ vì mọi người đã mất niềm tin là đồng Rúp còn duy trì được giá trị. Chính vì vậy vào cuối năm 1993, các quốc gia phát hành tiền của riêng nước mình với nỗ lực nhằn kiểm soát lạm phát trong nội bộ nước mình. Trong đó, Moldova, một trong những nước thành công nhất đã có thể giảm tỷ lệ lạm phát xuống còn 30% vào cuối năm 1995.
Lý do cơ bản để một quốc gia thành lập NHTW của chính mình là để bảo đảm việc kiểm soát tiền tệ. Giao cho người khác độc quyền phát hành tiền là một thảm họa, dẫn đến lạm phát cao và khiến quốc gia mất khả năng hoạt động suôn sẻ. trên thực tế, đã có trường hợp vì muốn gây bất ổn giá trị tiền tệ của một quốc gia, đối thủ đã thực hiện việc in tiền giả. Tuy nhiên, có một số quốc gia đã quyết định giao việc in tiền cho một cơ quan không phải là NHTW của nước mình. 16 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu đã chuyển nhượng quyền thực thi chính sách tiền tệ độc lập cho NHTW Châu Âu như là một phần của bước đi hướng đến một nền kinh tế thống nhất trong LM Châu Âu. Tuy nhiên, các quốc gia này chỉ chuyển nhượng quyền này sau khi xây dựng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm rằng làm lạm phát sẽ giữ ở mức thấp và loại trừ các rủi ro sử dụng sai các chính sách tiền tệ có thể khiến lạm phát cao.
2. NGÂN HÀNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
Là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng TW có các nhiệm vụ sau:
(1) Cho vay trong thời kỳ căng thẳng tài chính
(2) Quản lý hệ thống thanh toán
(3) Kiểm soát ngân hàng thương mại và hệ thống tài chính
(1) Ngân hàng trung ương có khả năng tạo tiền. điều này có nghĩa là ngay cả khi không ai có thể cho vay được nữa thì NHTW vẫn có thể cho vay thậm chí trong thời kỳ khủng hoảng. Chúng ta biết rằng một ngân hàng sẽ sụp đổ khi cùng một lúc tất cả các người gởi tiền cùng nhau rút tiền. Không có một ngân hàng nào tài giỏi đi chăng nữa có thể trụ vững được trong hoàn cảnh này. Để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng này, NHTW có thể cho vay khoản tiền dự trữ, hoặc cho vay tiền đối với các ngân hàng khỏe mạnh. Chúng ta sẽ trở lại xem xét vai trò “người cho vay cứu cánh cuối cùng” trong chương 18. Tại thời điểm này, tất cả nhưng gì chúng ta cần nói đó là bằng cách bảo đảm rằng các ngân hàng và các tổ chức tài chính khỏe có thể tiếp tục hoạt động, ngân hàng trung ương sẽ khiến cho toàn bộ hệ thống tài chính trong tình trạng ổn định. Và nhiều người cho rằng đây là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng trung ương hiện đại.
(2) Mỗi quốc gia cần phải có một hệ thống thanh toán an ninh và hiệu quả. Mọi người đều có nhu cầu thanh toán và các tổ chức tài chính cần một hệ thống thanh toán rẻ và đáng tin cậy để thực hiện việc chuyển vốn. Từ việc các ngân hàng đều có tài khoản tại ngân hàng trung ương ngân hàng, trung ương trở thành cơ quan thực hiện các khoản thanh toán liên ngân hàng. Ngày nay, các hoạt động thanh toán liên ngân hàng cực kỳ quan trọng. Trong năm 2009, giá trị tiền chuyển trung bình hàng ngày qua hệ thống Fedwire của Cục dự trữ liên bang là 2.5 nghìn tỷ USD bằng hơn 1/6 GDP của Hoa Kỳ.
(3) Cần phải có một ai đó giám sát các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng để các nhà gởi tiền và các nhà đầu tư yên tâm rằng các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng vững mạnh. Những người giám sát hệ thống tài chính phải có những thông tin nhạy cảm. ví dụ, các phương thức mà các tổ chức này sử dụng để ra quyết định về cho vay và tín dụng. đó là những thông tin rất hữu ích đối với các đối thủ trong cạnh tranh. Do đó, chỉ có các nhân viên giám sát của chính phủ mới là những người có thể xử lý các thông tin này mà không gây ra mâu thuẫn về mặt lợi ích. Ở một số quốc gia, người thực hiện việc giám sát này chính là các NHTW, ở một số quốc gia khác, đó có thể là những cơ quan độc lập khác. Ở Hoa Kỳ, người giám sát thuộc nhiều cơ quan khác nhau, trong đó có Cục dự trữ liên bang.
Do đó, với vai trò là ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng, NHTW là một nhân tố lớn nhất và hùng mạnh nhất trong hệ thống tài chính và kinh tế của một quốc gia. Ngân hàng quốc gia được mong đợi là sẽ sử dụng quyền lực của mìnhđể ổn định nền kinh tế, giúp chúng ta khấm khá thịnh vượng hơn.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: