Đường cầu, đường cung và cân bằng cung cầu tiền dự trữ
Hoàng Anh Thư
Trong bài viết này, tác giả muốn đề cập đến cách vẽ đường cầu, đường cung và cân bằng cung cầu tiền dự trữ
Đường cầu tiền dự trữ (Demand curve): Để vẽ được đường cầu tiền dự trữ, chúng ta cần phải hỏi: Giả sử mọi thứ đều không đổi, khi lãi suất vốn liên bang thay đổi thì nhu cầu tiền dự trữ của các ngân hàng sẽ thay đổi như thế nào? Hãy nhớ rằng: Tiền dự trữ bao gồm hai thành phần (1) Tiền dự trữ bắt buộc = tỷ lệ dự trữ bắt buộc * lượng tiền gởi cần phải có tiền dự trữ (required reserve = required reserve ratio * Amount of deposit on which reserves are required) (2) Tiền dự trữ vượt mức. Do đó, lượng tiền dự trữ = tiền dự trữ bắt buộc + tiền dự trữ vượt mức. Tiền dự trữ vượt mức chính là số tiền bảo đảm bảo hiểm cho cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng rút tiền gởi nhiều. Chi phí của việc giữ tiền dự trữ vượt mức là chi phí cơ hội (opportunity cost), đó là lãi suất mà lẽ ra ngân hàng nhận được nếu cho vay số tiền dự trữ vượt mức này trừ (-) lãi suất tiền gởi mà ngân hàng nhận được khi gởi tiền dự trữ vượt mức tại NHTW ier. Trước năm 2008, cục dự trữ liên bang ko trả lãi cho tiền dự trữ, nhưng kể từ năm 2008, Fed trả lãi cho tiền dự trữ ở mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất vốn liên bang mục tiêu, và mức lãi suất này sẽ thay đổi khi khi lãi suất mục tiêu (target) thay đổi. Khi lãi suất thị trường vốn liên bang còn cao hơn lãi suất tiền gởi ier, nếu lãi suất vốn liên bang giảm, chi phí cơ hội của việc giữ tiền dự trữ quá mức sẽ giảm. Giả sử rằng tất cả các yếu tố khác không đổi, bao gồm tiền dự trữ bắt buộc (required reserve) không đổi, nhu cầu tiền dự trữ sẽ tăng lên. Do đó, khi lãi suất vốn liên bang cao hơn lãi suất tiền gởi ier, đường cầu tiền dự trữ Rd dốc xuống. Ngược lại, khi lãi suất vốn liên bang bắt đầu hạ, thấp hơn lãi suất ier trả cho tiền dự trữ vượt mức thì tất nhiên các ngân hàng sẽ không cho vay trên thị trường vốn liên bang nữa. Mà thay vào đó, các ngân hàng sẽ quyết định giữ tiền dự trữ vượt mức để được hưởng lãi suất ier cao hơn lãi suất vốn liên bang. Kết quả là đường cầu tiền dự trữ Rd sẽ nằm ngang (co dãn hoàn toàn (infinitely elastic)) tại mức lãi suất ier như trong hình 1.
Đường cung tiền dự trữ (Supply curve): Đường cung tiền dự trữ có thể chia ra thành hai phần (1) lượng tiền dự trữ do hoạt động thị trường mở của Fed cung cấp được gọi là tiền dự trữ không đi vay NBR và (2) lượng tiền dự trữ vay từ Fed được gọi là tiền dự trữ đi vay BR. Chi phí của việc vay tiền từ Fed là mức lãi suất Fed đánh trên những khoản Fed cho vay id, đó chính là lãi suất chiết khấu (discount loan). Mức lãi suất chiết khấu được đặt cố định và cao hơn lãi suất mục tiêu trên thị trường vốn liên bang, và mức lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi khi lãi suất mục tiêu thay đổi. Bởi vì vay tiền dự trữ trên thị trường vốn liên bang là một sự thay thế (substitute) của việc vay vốn từ Fed để chịu lãi suất chiết khấu id. Nếu lãi suất thị trường vốn liên bang iff < lãi suất vay chiết khấu id, thì ngân hàng sẽ không vay chiết khấu từ Fed mà sẽ vay trên thị trường vốn liên bang, do đó cung tiền dự trữ từ cho vay chiết khấu BR = 0 bởi vì vay trên thị trường vốn liên bang sẽ rẻ hơn vay chiết khấu. Do đó, chừng nào mà iff còn thấp hơn id thì lượng cung tiền dự trữ sẽ luôn bằng lượng cung tiền dự trữ không phải từ hoạt động đi vay NBR, cung tiền từ hoạt động thị trường mở, do đó, đường cung sẽ thẳng đứng như trong hình 1. Tuy nhiên, nếu lãi suất thị trường vốn liên bang thay đổi, cao hơn lãi suất chiết khấu, các ngân hàng sẽ muốn vay chiết khấu từ Fed theo lãi suất chiết khấu id để rồi cho vay lại trên thị trường vốn liên bang với mức lãi suất iff. Và kết quả là đường cung sẽ trở nên nằm ngang (co dãn hoàn toàn) tại mức lãi suất id như trong hình 1.
Cân bằng cung cầu tiền dự trữ trên thị trường tiền dự trữ: Trạng thái cân bằng trên thị trường xảy ra khi lượng cầu tiền dự trữ bằng lượng cung tiền dự trữ Rs = Rd. Điểm cân bằng chính là giao điểm của đường cung và đường cầu ở mức lãi suất vốn liên bang cân bằng i*ff. Khi lãi suất thị trường vốn liên bang cao hơn mức lãi suất cân bằng, lượng cung tiền dự trữ sẽ nhiều hơn cầu tiền dự trữ, do đó lãi suất trên thị trường vốn liên bang sẽ giảm. ngược lại, khi lãi suất thị trường vốn liên bang thấp hơn mức lãi suất cân bằng, lượng cầu tiền dự trữ sẽ nhiều hơn cung tiền dự trữ, do đó, lãi suất trên thị trường vốn liên bang sẽ tăng. Để giữa lãi suất trên thị trường vốn liên bang bằng với mức lãi suất mục tiêu điều này có nghĩa là cân bằng cung và cầu tiền dự trữ tại lãi suất mục tiêu. Nhân viên của NHTW thực hiện điều này bằng cách cứ mỗi buổi sáng làm việc họ sẽ ước tính rằng tại mức lãi suất mục tiêu thì lượng cầu tiền dự trữ sẽ là bao nhiêu để từ đó cung một lượng tiền dự trữ tương ứng. Đó chính là lượng cung tiền từ hoạt động thị trường mở NBR (chính là phần thẳng đứng của đường cầu vertical). Do đó, đường cung sẽ thẳng đứng cho đến khi lãi suất trên thị trường vốn liên bang bằng với lãi suất cho vay chiết khấu, lúc đó các ngân hàng sẽ đi vay từ NHTW chứ không thực hiện việc vay trên thị trường vốn liên bang. Trong một ngày, lãi suất trên thị trường vốn liên bang có thể giao động trong phạm vi từ lãi suất tiền gởi ier lên lãi suất chiết khấu id. Tuy nhiên, từ ngày này sang ngày khác, đường cầu tiền dự trữ sẽ dịch chuyển hoặc khi FOMC quyết định tăng hay giảm lãi suất mục tiêu trên thị trường vốn liên bang, nhân viên của Fed sẽ sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để dịch chuyển đường cung để đảm bảo rằng lãi suất trên thị trường vốn liên bang gần bằng lãi suất mục tiêu.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: