Hệ thống tiền tệ quốc tế trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914) (tiếp theo)
Từ xa xưa vàng đã được mọi người ưa chuộng, họ cất giữ tài sản dưới dạng vàng và xem vàng là phương tiện trao đổi trong hầu hết các nền văn minh thời đó. Tuy vậy, phải đến 1821, bản vị vàng hoàn chỉnh đầu tiên mới được thiết lập ở Anh và lúc ấy giấy bạc của ngân hàng Anh có thể chuyển đổi dễ dàng thành Vàng. Nước Pháp thực hiện bản vị Vàng từ những năm 1850 và chính thức chấp nhận chế độ bản vị vàng từ năm 1878. Đế quốc Đức mới nổi lên đã nhận tiền bồi thường chiến tranh đáng kể từ Pháp và đã chuyển đổi sang bản vị vàng năm 1875. Mỹ chấp nhận bản vị vàng từ năm 1879. Nga và Nhật chấp nhận bản vị vàng từ 1897.
Chế độ bản vị vàng hoạt động dựa trên ba nguyên tắc:
- Dưới chế độ bản vị vàng các quốc gia ấn định đồng tiền của mình so với vàng và được Cơ quan phát hành đảm bảo tự do đổi tiền ra vàng không hạn chế. Để hỗ trợ cho khả năng chuyển đổi thành vàng không hạn chế, giấy bạc ngân hàng phải được đảm bảo bằng một dự trữ vàng với tỷ lệ ấn định tối thiểu. Theo chế độ bản vị vàng, tỷ lệ chuyển đổi giữa hai đồng tiền bất kỳ sẽ được thiết lập dựa theo giá vàng của hai loại tiền tệ đó. Chẳng hạn Bảng Anh được ấn định 6 Bảng = 1 ounce vàng, trong khi 1 ounce vàng = 12 Franc Pháp thì tỷ giá hối đoái giữa Bảng Anh và Franc Pháp sẽ là 1 Bảng = 2 Franc. Ngoài ra, dự trữ tiền trong nước sẽ tăng hoặc giảm khi vàng lưu thông vào hoặc ra khỏi đất nước.
- Dưới chế độ bản vị vàng, xuất nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động. Vì vàng được luân chuyển tự do giữa các nước, tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động nhiều so với bản vị vàng. Ví dụ như tỷ giá giữa đồng đôla Mỹ và bảng Anh. Giả sử tỷ giá trên thị trường tự do là USD/GBP = 5, có sai lệch nhiều so với tỷ giá do nhà nước ấn định là USD/GBP = 4.87. Do đó, nhà đầu tư có thể mua một ounce vàng ở Mỹ với giá 20.67USD và gởi vàng đến Anh để bán cho ngân hàng Anh với giá 4.24GBP, sau đó bán số bảng Anh thu được với tỷ giá thị trường để nhận 21.20USD và lời được 0.53USD. Quá trình này xảy ra liên tục sẽ khiến cho tỷ giá trên thị trường điều chỉnh về mức cân bằng.
- NHTW luôn phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Qua đó, ta có thể thấy trong chế độ bản vị vàng, lượng vàng dự trữ của một quốc gia quyết định lượng cung tiền của quốc gia đó.
+ Ưu điểm
Chế độ bản vị vàng tuy đã bị hủy bỏ từ hơn 80 năm trước đến nay vẫn còn được sự ủng hộ nhiệt tình trong giới học thuật, kinh doanh và chính trị do những ưu điểm sau:
- Bảo đảm sự ổn định giá cả; Giúp cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển hưng thịnh.
- Nhà nước muốn phát hành tiền cần phải có một lượng dự trữ vàng tương ứng, do đó có thể hạn chế sự lạm dụng của Nhà nước trong việc phát hành tiền. Chế độ bản vị vàng được xem như rào cản cuối cùng nhằm ngăn chặn lạm phát.
- Cho phép ổn định tỷ giá hối đoái. Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái được tự động điều chỉnh thông qua lượng vàng ra vào biên giới giữa các quốc gia. Giả sử tỷ giá lúc này trên thị trường là 1 Bảng = 1,8 Franc. Như vậy, Bảng Anh bị định giá thấp trên thị trường hối đoái nên Bảng Anh sẽ được mua bằng Franc. Với những người cần Franc, họ sẽ mua vàng của ngân hàng Anh sau đó mang sang Pháp bán lấy Franc. Chẳng hạn nếu bạn mua 1000 Bảng Anh bằng Franc trên thị trường hối đoái bạn phải tốn 555,56 Bảng (1000:1,8). Thay vào đó, bạn mua 1000/12 once vàng của ngân hàng với giá 500 Bảng [(1000/12)x6], sau đó đưa số vàng này sang Pháp bán cho ngân hàng để sự dịch chuyển vàng này là đồng Bảng có xu hướng tăng giá và đồng Franc có xu hướng giảm giá và sẽ trở lại trạng thái 1 Bảng = 2 Franc như đã xác lập ban đầu. Trong chế độ bản vị vàng, các nhà đầu tư gần như được đảm bảo chắc chắn trước những rủi ro về tỷ giá, điều này khiến cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển, luồng vốn lưu chuyển tự do giữa các quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận.
- Tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế được tự động điều chỉnh dưới chế độ bản vị vàng. Giả sử Anh xuất khẩu sang Pháp nhiều hơn là nhập khẩu từ Pháp. Tình trạng mất cân đối thương mại này sẽ không tồn tại lâu dài vì xuất khẩu ròng từ Anh sang Pháp sẽ kéo theo một lưu lượng ròng về vàng theo chiều ngược lại. Lưu lượng này tạo ra mặt bằng thấp hơn về giá tại Pháp và mặt bằng cao hơn về giá tại Anh (do lưu lượng tiền tùy thuộc lưu lượng vào ra). Sự thay đổi này sẽ làm chậm lại hoạt động xuất khẩu ở Anh đồng thời khuyến khích hoạt động xuất khẩu ở Pháp. Do vậy, xuất khẩu ròng sẽ đổi chiều. Cơ chế điều tiết này gọi là cơ chế lưu thông giá - tiền và người khai sinh ra nó là David Hume – Một triết gia người Scotland.
- Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra vì tình trạng thâm hụt hay thặng dư trong cán cân thanh toán của một quốc gia được điều chỉnh một cách tự động theo quan hệ cung cầu phổ biến.
+ Hạn chế
Chế độ bản vị vàng cũng có những hạn chế quan trọng:
- Việc cung ứng tiền phụ thuộc vào việc khai thác vàng và dự trữ vàng của Ngân hàng trung ương.
- Do đó, tăng trưởng kinh tế cũng phụ thuộc vào việc phát hiện ra vàng; Gây ra lạm phát đối với các nước có thặng dư trong cán cân thanh toán và những nước khai thác được nhiều vàng. Ngược lại, những nước khan hiếm vàng sẽ bị hạn chế lượng cung tiền và trở thành nguyên nhân gây kiềm hãm nền kinh tế.
- Với cơ chế điều chỉnh thông qua dòng vàng lưu chuyển tự do giữa các quốc gia và việc phát hành tiền dựa trên lượng vàng dự trữ khiến cho việc điều hành của Ngân hàng Trung ương kém linh động, vai trò của Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế cũng không rõ nét.
Có thể nói rằng bản vị vàng cổ điển có tính quốc tế hiện diện như một thực tế lịch sử trong thời kỳ 1875 – 1914. Đa số các quốc gia đều loại bỏ vàng vào năm 1914 khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Bản vị vàng cổ điển là hệ thống tiền tệ quốc tế đã kéo dài khoảng 40 năm. Trong thời kỳ này, London đã trở thành trung tâm của hệ thống tài chính quốc tế, phản ánh nền kinh tế tiến bộ và vị trí nổi bật của Anh trong thương mại quốc tế.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: