Xu hướng vòng quay tiền tệ Việt Nam
Vòng quay tiền tệ ổn định là một yếu tố thuận lợi cho điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Các học thuyết tiền tệ khi nghiên cứu ảnh hưởng của cung tiền đến giá cả, sản lượng và đầu tư đều giả định với vòng quay tiền tệ không đổi. Tuy nhiên, trên thực tế, đặc biệt là những nước thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc phát triển ở mức độ thấp, điều này gây không ít khó khăn cho các nhà hoạch định CSTT trong việc dự báo cung tiền (sát với tốc độ tăng trưởng kinh tế) và lạm phát.
Vòng quay tiền tệ của Việt Nam trong những năm qua có xu hướng giảm dần và ổn định hơn từ năm 2003 đến nay. Vòng quay tiền tệ đã giảm từ mức 4,97 (năm 1992), xuống còn 1,67 (năm 2003), 1,54 (năm 2004) và 1,35 (năm 2005).
Về lý thuyết, vòng quay tiền tệ là số lần một đơn vị tiền tệ trong lưu thông bình quân thực hiện mua bán chi trả dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Trong kinh tế học vĩ mô, vòng quay tiền tệ (V) được xác định bằng tổng thu nhập danh nghĩa chia cho lượng tiền trung bình trong một khoảng thời gian nhất định (M). Hoặc có thể tính đơn giản V = GDP danh nghĩa/M2 trung bình (M2 = lượng tiền lưu thông + tiền gửi kỳ hạn). Như vậy, vòng quay tiền tệ có thể bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như thu nhập, lãi suất, lợi nhuận thu được từ chứng khoán, tâm lý người tiêu dùng...
Phân tích xu hướng giảm của vòng quay tiền tệ Việt Nam, ta thấy có 5 nguyên nhân chủ yếu.
Một là, hệ số co giãn cầu tiền thực tế và thu nhập (bằng tốc độ tăng cầu tiền thực tế/tốc độ tăng trưởng kinh tế) trong những năm qua có xu hướng tăng. Theo tính toán sơ bộ, hệ số co giãn tiền tệ tăng từ mức 0,8 (năm 1993) lên trên 1,04 (năm 2003). Do thu nhập có ảnh hưởng đến cầu tiền thực tế, nên khi hệ số co giãn của cầu tiền đối với thu nhập bằng 1, thì thu nhập tăng không tác động đến vòng quay tiền tệ. Tại các nước đang phát triển, thu nhập tăng, cầu tiền thường tăng mạnh hơn, hệ số co giãn cầu tiền đối với thu nhập thường lớn hơn 1. Hệ số co giãn trong những năm qua có xu hướng tăng đã tác động làm giảm vòng quay tiền tệ.
Hai là, lãi suất đã giảm. Từ mức khoảng 16%/năm (năm 1992), đến nay, mức lãi suất danh nghĩa đã giảm xuống còn trên 8%/năm. Tương tự, mức lãi suất thực tế cũng giảm từ mức 4-5%/năm (năm 1992), xuống còn 2-3%/năm. Lãi suất giảm làm cầu thực tế về tiền tệ tăng, vòng quay tiền tệ có xu hướng chậm lại. Qua biểu đồ cho thấy, vòng quay tiền tệ có xu hướng giảm cùng với việc giảm lãi suất.
Ba là, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã giảm và dần ổn định. Nếu như giai đoạn 1992-1995, CPI còn ở mức 2 con số, thì giai đoạn 1996 -2003, CPI đã được kiểm soát ở mức 1 con số. Xu hướng ổn định của CPI đã tạo lòng tin cho người tiêu dùng và dân cư vào đồng tiền, khuyến khích việc sử dụng tiền tệ làm phương tiện cất trữ và gửi tiết kiệm. CPI ổn định đã hạn chế việc người dân dùng tiền mua hàng hóa dịch vụ để cất trữ, qua đó giảm số lần sử dụng tiền tệ để mua bán, làm giảm vòng quay tiền tệ. Từ năm 2004 đến nay, do CPI tăng hơn các năm trước, nên tốc độ giảm vòng quay tiền tệ có xu hướng chậm lại. Tuy nhiên, CPI vẫn trong tầm kiểm soát, nên CPI tăng chưa thực sự tác động đến tâm lý dân cư và vòng quay tiền tệ.
Bốn là, nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế xã hội hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong giai đoạn này, (đặc biệt từ năm 1992 đến năm 1996), mức độ tiền tệ hóa của nền kinh tế rất lớn, đòi hỏi khối lượng tiền tệ M2 phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa (điển hình như quỹ đất biến thành hàng hóa mà không làm tăng GDP, nền kinh tế tự cung tự cấp của nông dân giảm...). Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm vòng quay tiền tệ.
Năm là, hệ thống thống kê tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã dần được cải thiện. Số ngân hàng được thống kê trong bảng cân đối tiền tệ của NHNN đã tăng từ 24 (năm 1992) lên 77 tổ chức tín dụng và hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Khối lượng tiền M2 trong nền kinh tế đã được phản ánh đầy đủ hơn là một nhân tố tác động làm giảm vòng quay tiền tệ.
Như vậy, trong những năm trước đây, vòng quay tiền tệ giảm mạnh và không ổn định là một khó khăn cho NHNN trong việc thực thi CSTT, đặc biệt trong công tác phân tích và dự báo nhu cầu tiền tệ. Từ năm 2003 trở lại đây, vòng quay tiền tệ đã có xu thế ổn định dần là một tín hiệu tốt cho thấy, việc điều hành CSTT của NHNN trong những năm qua ngày càng đạt hiệu quả cao. Vòng quay tiền tệ ổn định cũng tạo điều kiện cho việc dự báo tiền tệ, cũng như quá trình phân tích và lập chương trình tiền tệ cho các nhà hoạch định chính sách tiền tệ và thực hiện khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát.
Tại các nước phát triển, vòng quay tiền tệ xấp xỉ 1 cho thấy, vòng quay tiền tệ ở Việt Nam đang dần phù hợp với xu hướng quốc tế, phản ánh tính thị trường của nền kinh tế. Tuy nhiên, vòng quay tiền tệ chậm lại cũng đồng nghĩa với lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp vào nền kinh tế tăng.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: