Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại (phần 2)
Tuy nhiên ở Việt nam, quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng lại không diễn ra như vậy.
- 1875: hệ thống ngân hàng Việt nam có tiền thân là ngân hàng Đông dương. Ngân hàng này do thực dân Pháp thiết lập nhằm phục vụ cho quân đội viễn chinh của Pháp ở Đông dương.
- 1946: sau khi giành được thắng lợi từ cuộc cách mạng tháng 8/1945, năm 1946 quốc hữu hóa ngân hàng Đông dương thành lập Nha tín dụng, đây là tiền thân cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam về sau.
- 6/5/1951: thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam.
- 1976: sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt nam.
Giai đoạn 1951-1988: hoạt động ngân hàng 1 cấp (theo mô hình Liên xô cũ) ®không còn phù hợp khi đất nước ở thời kỳ xây dựng phát triển ® 26/3/1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Theo đó, mô hình tổ chức bộ máy được phân thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại.
Khối NHTM hiện nay bao gồm:
NHTM quốc doanh(NHTM được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước). Thuộc loại này bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long. Các ngân hàng quốc doanh hiện đang chiếm thị phần lớn nhất, là lực lượng nòng cốt trong hệ thống tài chính Việt nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần( thuộc loại hình tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân). Thuộc loại này gồm có 25 ngân hàng đô thị, ví dụ: NH á châu, Đông á, Đông nam á, Bắc á, Hàng hải, Kỹ thương, Phương nam, Quân đội và 12 ngân hàng cổ phần nông thôn, ví dụ: NH Đại á, Đồng tháp mười, An bình, Cờ đỏ....Các ngân hàng thương mại cổ phần hiện chiếm thị phần nhỏ so với các NHTM quốc doanh. Tuy nhiên sự phát triển của các ngân hàng này đã góp phần đa dạng hóa các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân hàng, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động NHTM.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài(ngân hàng được lập theo pháp luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật Việt nam). Hiện nay có 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt nam: Bank of Tokyo, ANZ, Bank of China, Bankok bank, ABN Amro Bank, Mizuho Corporate bank, Standard Chartered bank...
Ngân hàng liên doanh (ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng Việt nam và một bên khác là ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật Việt nam). Hiện có 4 ngân hàng liên doanh tại Việt nam: Indo Vina bank, Vid Public bank, Chohung Vina bank, Vina Siam bank. Hai loại hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh đã góp phần cung cấp cho thị trường Việt nam nhiều sản phẩm, dịch vụ mới. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó ở Việt nam hiện còn rất nhỏ.
Kết luận:ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng nhất đối với nền kinh tế. Khái niệm “ngân hàng” có thể được định nghĩa qua chức năng, qua vai trò hoặc qua các dịch vụ của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên vấn đề lại là ở chỗ các yếu tố trên hiện đang không ngừng thay đổi, nhiều tổ chức tài chính đã tham gia cung cấp dịch vụ ngân hàng như: công ty bảo hiểm, công ty môi giới chứng khoán, công ty kinh doanh chứng khoán.... Từ đó cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Vậy khái niệm ngân hàng có thể được hiểu như sau:Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế (trích; trang 11- giáo trình Ngân hàng Thương mại - TS Phan Thị Thu Hà).
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: