MỐI QUAN HỆ GIỮA SẢN XUẤT BỀN VỮNG, HIỆU SUẤT KINH DOANH VÀ LỢI THẾ CANH TRANH
Bền vững đã và đang được tiếp cận như một cách thức nhằm đạt được sự khác biệt mang tính cạnh tranh của nhiều doanh nghiêp (Shahbazpour & Seidel, 2006). Thực hành sản xuất bền vững một cách hiệu quả đã trở thành công cụ giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh và cải thiện hiệu suất hoạt động của tổ chức (Vinodh & Joy, 2011). Tuy nhiên, mặc dù trong thực tế việc sản xuất bền vững đã được thúc đẩy thường xuyên nhằm cải thiện sức cạnh tranh trên thị trường, rất ít các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra được mối quan hệ tích cực của khía cạnh này với hiệu suất của tổ chức(Vinodh & Joy, 2011). Qua đó, những câu hỏi về mối quan hệ hữu cơ giữa thực hành bền vững, hiệu suất kinh doanh và lợi thế cạnh tranh đều phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp có tập trung vào chiến lược bền vững và thực hành sản xuất bền vững tốt hơn các doanh nghiệp khác hay không
Hơn một thập kỉ trải qua kể từ khi Klassen and Whybark (1999) chỉ ra rằng khách hàng, nhà cung cấp, cộng đồng đang có sự quan tâm ngày càng nhiều hơn đối với hoạt động kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng về tác động tiêu cực của hoạt động sản xuất và các sản phẩm đối với môi trường tự nhiên. Từ đó, việc quản lí các hoạt động theo tiêu chí thân thiện với môi trường đang nổi lên như một vấn đề chiến lược đối với các doanh nghiệp. Gombauldt and Versteege (1999) xác định các yếu tố đối với việc thực hiện các hoạt động sản xuất bền vững của doanh nghiệp như cắt giảm chi phí, cải thiện chất lượng, chấp hành qui định. Các doanh nghiệp đã chủ động trong việc sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn và cải hiện hình ảnh doanh nghiệp của mình (Montabon, Sroufe, & Narasimhan, 2007). Bất kể điều kiện nào đối việc áp dụng các biện pháp thực hành sản xuất bền vững, các doanh nghiệp ngày càng nhận thực rõ hơn về sự bền vững như là cơ hội trong việc đạt được lợi thế cạnh tranh. Những lí thuyết về vấn đề này được tổng hợp từ kết quả của nhiều nghiên cứu thực nghiệm (Russo & Fouts, 1997). Một vài nghiên cứu đã chỉ ra được mối qun hệ tích cực giữa môi trường hoạt động và hiệu suất kinh doanh Aragón-Correa, Hurtado-Torres, & García-Morales (2008), Klassen and McLaughlin (1996), Nakao, Amano, Matsumura, Genba, & Nakano (2007), and Russo and Fouts (1997). Những nghiên cứu khác Cordeiro and Sarkis (1997), Wagner (2005), Walley and Whitehead (1994), and Watson, Klingenberg, Polito, & Geurts (2004) cũng đã có những ý kiến về sự tồn tại mâu thuẫn giữa khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và môi trường hoạt động. Có những lí thuyết đã cung cấp những thông tin đa chiều cho nhà quản trị doanh nghiệp, nhà hoạch định chính sách và các bên hữu quan những người rất ủng hộ việc bảo vệ môi trường thông qua việc thúc đẩy các trách nhiệm mà doanh nghiệp thực hiện (Zeng, Meng, Yin, Tam, & Sun, 2010)
Bài báo đưa ra kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa thực hành sản xuất bền vững, hiệu suất kinh doanh và lợi thế cạnh tranh tại các doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng. Ngành công nghiệp sản xuất được chọn cho nghiên cứu này bởi theo Handfield, Walton, Seegers, & Melnyk (1997), đây là lĩnh vực mà các hoạt động kinh doanh dễ nhận thấy. Hơn nữa, các ngành công nghiệp sản xuất là nguyên nhân chủ yếu đối với các vấn đề môi trường và xã hội (Zeng et al., 2010) như ô nhiễm không khí, đất, nước so với ngành công nghiệp dịch vụ (Stead & Stead, 1992). Nghiên cứu này chỉ ra 3 câu hỏi chính: Các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn miền trung tây nguyên thực hành sản xuất bền vững sẽ có hiệu suất kinh doanh càng cao hay không? Các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn TP Đà Nẵng đang áp dụng thực hành sản xuất bền vững sẽ có lợi thế cạnh tranh càng nhiều không? Các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn TP Đà Nẵng có lợi thế cạnh tranh càng nhiều sẽ có hiệu suất kinh doanh càng cao hay không?
Để trả lời những câu hỏi này, sự đóng góp ban đầu của bài báo là thêm vào nghiên cứu thực nghiệm dụa trên sự tác động của sản xuất bền vững đến hiệu suất kinh doanh và lợi thế cạnh tranh. Bài báo dựa trên khảo sát thực hành sản xuất bền vững của những doanh nghiệp sản xuất tại TP Đà Nẵng.. Tác giả tin rằng những kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp có được cơ sở tham khảo. Bên cạnh đó, đóng góp thứ hai của bài báo là bổ sung những lí thuyết đã được xây dựng từ những nghiên cứu trước đây, đặc biệt là các khu vực thuộc các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thông qua cách tiếp cận ở mực độ hoạt động sản xuất thông qua các thang đo tổng hợp với xu hướng cung cấp ít thông tin về hoạt động mang tính chất môi trường (Rusinko, 2007)
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: