Tác động của lạm phát (Phần 2)
Một số người không bị tác động bởi lạm phát và số khác thì thực sự là được hưởng lợi. Đối với nhóm thứ hai, lạm phát tái phân phối thu nhập thực cho họ.
Người nhận thu nhập không cố định: Người mà có thu nhập không cố định có thể thoát khỏi ảnh hưởng xấu của lạm phát hoặc thậm chí có thể có lợi. Ví dụ, các cá nhân mà có thu nhập riêng lẻ từ trợ cấp an sinh xã hội sẽ không bị ảnh hưởng bao nhiêu vì các khoản chi trả của an sinh xã hội tính theo chỉ số CPI. Các khoản lợi ích tự động gia tăng khi CPI tăng để ngăn chặn sự suy giảm lợi ích khi có lạm phát. Một số công nhân công đoàn cũng có điều chỉnh chi phí sống tự động (COLAs) trong tiền lương của họ khi CPI gia tăng dù những mức gia tăng này hiếm khi bằng với mức tăng của lạm phát.
Một số người nhận thu nhập không cố định và những người đi vay nhận được lợi ích của lạm lạm phát ngoài dự kiến. Sự thiếu hụt lao động và cầu sản phẩm mạnh mẽ bị lạm phát cầu kéo dữ dội ảnh hưởng là nguyên nhân của một số thu nhập danh nghĩa đẩy mức giá tăng lên làm thay đổi thu nhập thực. Tăng thu nhập thực 3% khi lạm phát 2% có thể trở thành tăng 7% khi lạm phát 5%. Ví dụ, người sở hữu tài sản đất đai đối mặt với bùng nổ đất đai thực do lạm phát gây ra có thể đẩy tiền thuê nhà tăng mạnh lên hơn mức tăng của lạm phát. Như thế một số người chủ doanh nghiệp sẽ được lợi từ lạm phát. Nếu giá sản phẩm tăng nhanh hơn giá của yếu tố sản xuất, doanh thu doanh nghiệp sẽ tăng mạnh hơn chi phí. Trong một số tình huống, tỷ lệ tăng thu nhập lợi nhuận sẽ đi nhanh hơn mức lạm phát.
Người đi vay: Lạm phát không dự kiến mang lại lợi ích cho người đi vay. Trong ví dụ trước, khoản thua lỗ trong thu nhập thực của ngân hàng Chase do lạm phát chính là khoản Bob nhận thêm được trong thu nhập thực. Người đi vay - Bob đi mượn những đồng tiền “yêu quý” nhưng do lạm phát, trả lại cả vốn và lời bằng những đồng tiền “rẻ” do lạm phát làm giảm sức mua. Thu nhập thực được tái phân phối từ chủ ngân hàng Chase sang cho người mượn tiền là Bob.
Chính quyền liên bang đã tích lũy 9.0 tỷ tỷ USD nợ công trong năm 2007 cũng được lợi từ lạm phát. Trong lịch sử, chính quyền liên bang dùng các khoản nợ mới để trả các khoản nợ thường xuyên của họ. Lạm phát cho phép ngân khố trả các khoản nợ bằng tiền có sức mua ít hơn khoản nợ gốc. Thu nhập quốc gia danh nghĩa và thu nhập thuế tăng cùng với lạm phát; số lượng nợ công thì không. Do đó, lạm phát giảm gánh nặng nợ công cho chính quyền liên bang.
Lạm phát dự kiến
Tác động tái phân phối của lạm phát ít nghiêm trọng hoặc ảnh hưởng ít hơn nếu người ta tiên đoán được lạm phát và có thể điều chỉnh thu nhập danh nghĩa của họ để phản ánh mức tăng giá kỳ vọng. Lạm phát kéo dài bắt đầu cuối những năm 1960 thúc đẩy nhiều công đoàn lao động giữ nguyên hợp đồng lao động có mức đièu chỉnh chi phí sống trong những năm 1970.
Tương tự, nếu lạm phát dự đoán được, việc tái phân phối thu nhập từ người cho vay sang người đi vay sẽ ít đi. Giả sử người đi vay (có thể ngân hàng thương mại hoặc quỹ tiết kiệm và cho vay) và người đi vay ( hộ gia đình) đều đồng ý mức lãi suất 5% cho khoản vay 1 năm với mức giá ổn định. Nhưng giả sử lạm phát xảy ra và dự kiến năm sau sẽ đến 6%. Nếu ngân hàng cho hộ gia đình vay 100 USD ở mức lãi suất 5% thì ngân hàng sẽ nhận lại 105 USD vào cuối năm. Nhưng nếu lạm phát 6% trong năm đó, sức mua của 105 USD sẽ giảm xuống còn 99 USD. Như vậy người cho vay sẽ chỉ mất có 1 USD do tiền cho vay trong 1 năm.
Người cho vay có thể tránh việc trợ giá này bằng cách tính mức lạm phát ưu tiên – đó là bằng cách tăng lên mức lãi suất 6%, đây là mức lạm phát dự kiến. Nếu tính 11%, người cho vay sẽ nhận lại 111 USD vào cuối năm. Điều chỉnh theo lạm phát 6%, số tiền này sẽ có sức mua trị giá 105 USD theo tiền hiện nay. Kết quả là việc chuyển sức mua từ người đi vay sang người cho vay được thống nhất hai bên là 5 USD hoặc 5% đối với khoản vay 100 USD trong 1 năm. Các tổ chức tài chính cũng đưa ra nhiều khoản cầm cố thế chấp với mức lãi suất khác nhau để bảo vệ chính họ khỏi tác động ngược của lạm phát. ( Một cách ngẫu nhiên, ví dụ này chỉ ra nguyên nhân của lạm phát, lãi suất danh nghĩa cao là kết quả của lạm phát)
Lãi suất thực
Ví dụ của chúng tôi chỉ ra rằng sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực. Lãi sất thực là phần trăm tăng trong sức mua mà người vay trả cho người cho vay. Trong ví dụ, lãi suất thực 5%. Lãi suất danh nghĩa là phần trăm gia tăng số lượng tiền mà người đi vay trả cho người cho vay bao gồm kết quả dự kiến phạm phát ở trong này. Phương trình có dạng:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + lạm phát dự kiến
Những vấn đề tái phân phối khác
Chúng ta kết thúc phần tác động tái phân phối của lạm phát ở ba điểm sau:
• Giảm phát tác động của giảm phát ngoài dự kiến – việc giảm giá – là sự đảo ngược của lạm phát. Những người có mức thu nhập danh nghĩa cố định sẽ nhận thấy thu nhập thực của họ tăng lên. Người cho vay sẽ có lợi từ chi phí của việc cho vay. Và người tiết kiệm sẽ nhận ra sức mua của các khoản họ tiết kiệm tăng lên do giá giảm xuống
• Tác động hỗn hợp Người đồng thời có thu nhập và nắm giữ các tài sản tài chính và người cho vay có thể sẽ nhận ra tác động tái phân phối của lạm phát ngoài dự kiến đang yếu đi. Nếu người sở hữu tài sản bằng tiền có giá trị cố định ( tài khoản tiết kiệm, trái phiếu, bảo hiểm), lạm phát sẽ làm giảm giá trị thực của chúng. Nhưng lạm phát tương tự sẽ tạo ra sự gia tăng trong tiền lương danh nghĩa. Cũng vậy, nếu người nào đó giữ các khoản cầm cố với mức lãi suất cố định, gánh nặng của khoản nợ thực sẽ giảm. Tóm lại, nhiều cá nhân đồng thời vừa bị tổn thất vừa được lợi từ lạm phát.
Tất cả những tác động này phải được xem xét trước khi chúng ta có thể kết luận người nào đó bị ảnh hưởng bởi lạm phát là tốt hơn hay xấu đi.
• Sự độc đoán : Tác động tái phân phối của lạm phát xảy ra mà không tính đến các giá trị và mục tiêu xã hội. Lạm phát thiếu lương tâm xã hội và lấy của người này đưa cho người khác, không tính đến việc họ giàu, nghèo, trẻ, già, mạnh khỏe hay đau ốm.
Liệu lạm phát có ảnh hưởng đến đầu ra hay không?
Từ lâu, chúng tôi đã tập trung vào nội dung lạm phát làm tái phân phân phối mức tổng thu nhập thực cho trước như thế nào. Nhưng lạm phát cũng có thể ảnh hưởng đến tổng sản lượng thực của nền kinh tế ( và do vậy đến mức tổng thu nhập thực). Định hướng và điều đặc biệt của sự tác động này lên đầu ra phụ thuộc loại lạm phát và mức độ nghiêm trọng của nó.
Lạm phát chi phí đẩy và đầu ra thực
Nhớ rằng việc gia tăng bất ngờ và mạnh mẽ của giá một số nguồn lực chính như dầu có thể tác động hiệu quả đến tổng chi phí sản xuất dẫn đến lạm phát chi phí đẩy. Khi giá tăng lên, cầu về số lượng hàng hóa và dịch vụ giảm xuống. Vì thế các doanh nghiệp phản ứng lại bằng cách sản xuất ít hơn, thất nghiệp gia tăng.
Các biến cố kinh tế của những năm 1970s cung cấp ví dụ về việc lạm phát có thể làm giảm đầu ra thực như thế nào. Cuối năm 1973 Khối các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) nỗ lực sức mạnh thị trường của nó để xoay chuyển giá dầu tăng gấp 4 lần. Lạm phát chi phí đẩy ảnh hưởng đến sự gia tăng mức giá mạnh ở thời kỳ 1973-1975. Cùng lúc, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ tăng từ mức thấp hơn 5% năm 1973 đến 8.5% năm 1975. Kết quả tương tự xảy ra giai đoạn 1979-1980 phản ứng lại cú sốc cung dầu của OPEC.
Tóm lại, lạm phát chi phí đẩy giảm đầu ra thực. Nó tái phân phối mức thu nhập thực giảm xuống.
Lạm phát do cầu kéo và đầu ra thực
Các nhà kinh tế không hoàn toàn đồng ý về tác động của lạm phát (dưới 3%) đến đầu ra thực. Một cảm nhận đó là ngay cả khi mức lạm phát thấp giảm đầu ra thực vì lạm phát làm chuyển hướng thời gian và nỗ lực về phía các hoạt động để phong tỏa tài chính chống lạm phát. Ví dụ,
• Các doanh nghiệp phải quan tâm đến chi phí của việc thay đổi hàng ngàn mức giá của hàng hóa trên giá cả họ và trong máy tính đơn giản là để phản ánh lạm phát
• Hộ gia đình và doanh nghiệp phải bỏ nhiều thời gian và nỗ lực để xem xét các thông tin họ cần để phân biệt giá trị thực và danh nghĩa như giá, lương và lãi suất
• Để giới hạn mức mất mát của sức mua từ lạm phát, người ta tìm cách giới hạn số lượng tiền họ nắm giữ trong ví tiền và tài khoản séc một lần và thay vào đó bỏ thêm nhiều tiền vào tài khoản ngân hàng để lấy lãi, mua cổ phiếu và trái phiếu. Nhưng tiền mặt và tài khoản séc thì cần phải có số lượng tiền lớn hơn để dùng mua các hàng hóa và dịch vụ giá cao hơn. Các chuyến đi lại thường xuyên, các cuộc điện thoại hoặc dùng internet để vào web các tổ chức tài chính đòi hỏi chuyển các nguồn tiền này thành các tài khoản séc và ví tiền khi cần thiết.
Không có lạm phát, việc sử dụng các nguồn lực, thời gian và những nỗ lực này sẽ không cần thiết và chúng có thể thay đổi mục đích về phía sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ giá trị hơn. Những đề xuất của “lạm phát bằng 0” ủng hộ tình huống này bằng cách chỉ ra trong các nghiên cứu chéo giữa các quốc gia cho thấy tỷ lệ lạm phát thấp đi cùng với tỷ lệ tăng trưởng cao. Những nhà kinh tế nói rằng thậm chí lạm phát nhẹ thì vẫn là gây thiệt hại cho tăng trưởng kinh tế.
Phạm Thị Thùy Miên
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: