LẬP KẾ HOẠCH QUẢNG CÁO
Một kế hoạch quảng cáo là phần mở rộng trực tiếp của một kế hoạch marketing của công ty. Như đã trình bày trong phần kết thúc của chương 6, một công cụ có thể được sử dụng để kết nối rõ ràng kế hoạch marketing với kế hoạch quảng cáo chính là tuyên bố về vấn đề giá trị thương hiệu. Một tuyên bố về ý nghĩa của thương hiệu trong mắt của thị trường mục tiêu xuất phát từ chiến lược marketing của công ty, và nó sẽ hướng dẫn mọi hoạt động lập kế hoạch quảng cáo. Kế hoạch quảng cáo, bao gồm tất cả truyền thông thương hiệu tích hợp, là một tập hợp con của kế hoạch marketing lớn hơn. Thành phần IBP phải được xây dựng thành kế hoạch theo phương pháp hiệp trợ và liền mạch. Mọi thứ cần phải hoạt động cùng nhau, dẫu cho kế hoạch phục vụ cho Apple hay cho hoạt động kinh doanh cần ít nguồn lực hơn. Và như Steve Jobs đã nói, không có điều gì có thể thay thế được sự hợp tác giữa công ty và khách hàng trong sự phát triển kế hoạch marketing và quảng cáo thuyết phục.
Một kế hoạch quảng cáo nêu cụ thể suy nghĩ, nhiệm vụ và lịch trình cần thiết để tạo ra và triển khai nỗ lực quảng cáo hiệu quả. Hầu như chúng ta đều thích ví dụ của Apple bởi vì họ luôn minh họa nhiều lựa chọn mà có thể được triển khai trong việc tạo ra sự quan tâm và truyền thông tuyên bố về giá trị thương hiệu như iPod hoặc iPhone. Jobs và công ty của ông tổ chức các hoạt động quan hệ công chúng, truyền thông và sự kiện, quảng cáo hợp tác, quảng cáo truyền thông, quảng cáo bảng hiệu, phát triển trang web, và nhiều hơn nữa như là một phần trong đợt tung sản phẩm của họ. Người lập kế hoạch quảng cáo cần xem xét tất cả các lựa chọn trước khi chọn một tập hợp để truyền thông đến khán giả mục tiêu.
Với nhiều lý do mà ngày càng trở nên rõ ràng đối với bạn, điều quan trọng là bạn phải suy nghĩ vượt qua phương tiện truyền thông truyền thống khi xem xét cách tốt nhất để vượt qua mớ lộn xộn của thị trường hiện đại và truyền bá thông điệp đến cho khách hàng. Miami’s Crispin Porter + Bogusky là một công ty khác mà xây dựng danh tiếng nhờ vào việc tìm kiếm các cách thức mới lạ để đăng ký thông điệp của khách hàng với người tiêu dùng. Như bạn sẽ học trong chương 10, một trong những nguyên tắc thành công của CP+B trong việc lập kế hoạch chiến dịch là xem xét mọi thứ rõ ràng về phương tiện truyền thông đại chúng. Khi bạn thừa nhận triết lý mọi thứ là phương tiện truyền thông, sẽ dễ dàng hơn để đưa thông điệp đến cho khách hàng và tạo sự kết nối sâu sắc nhờ sự hỗ trợ của thương hiệu.
Một kế hoạch quảng cáo sẽ gồm: giới thiêu, phân tích tình huống, mục tiêu, ngân sách, chiến lược, thực thi, và đánh giá. Mỗi thành phần sẽ được thảo luận trong phần sau.
Giới thiệu. Phần giới thiệu của một kế hoạch quảng cáo bao gồm một tóm tắt chính thức và một miêu tả ngắn gọn. Một bản tóm tắt chính thức, thường có độ dài khoảng hai đoạn văn đến một trang giấy, nhằm mục đích chỉ rõ những khía cạnh quan trọng của kế hoạch. Đây là phần mà người đọc cần phải nhớ từ bản kế hoạch. Đó là phần cần thiết của kế hoạch.
Cũng giống như nhiều tài liệu khác, bản miêu tả ngắn gọn cũng theo phong tục thông thường. Một bản mô tả ngắn gọn có độ dài từ một đoạn văn đến một vài trang. Nó ghi rõ những gì cần bao hàm, và nó tổ chức bối cảnh. Tất cả kế hoạch đều khác nhau, và một số đòi hỏi sự sắp xếp nhiều hơn những cái khác. Đừng đánh giá thấp lợi ích của phần giới thiệu hay. Đó là nơi bạn có thể tạo ra hay mất điểm với ông chủ hay khách hàng của bạn.
Phân tích tình huống. Khi ai đó hỏi bạn giải thích tại sao bạn lại đưa ra quyết định, bạn có thể trả lời đại loại như, “Tình huống là như thế này…”. Bạn có thể trích ra một số điểm quan trọng từ tình huống và chúng kết nối với nhau như thế nào để giải thích tại sao bạn đưa ra quyết định. Một bản phân tích tình huống kế hoạch quảng cáo cũng không khác gì mấy. Đó là nơi mà khách hàng và công ty giải thích các nhân tố quan trọng nhất để xác định tình huống, và sau đó giải thích tầm quan trọng của mỗi nhân tố.
Một danh sách dài các nhân tố tiềm năng (dân chủng học, công nghệ, xã hội và văn hóa, kinh tế và chính trị/quy định) có thể xác định một bản phân tích tình huống. Một số sách đưa ra những danh sách dài nhưng không hoàn chỉnh. Chúng tôi muốn nói rõ cho bạn biết: không có danh sách nào hoàn hảo về các nhân tố tình huống. Mục tiêu ở đây không phải là bao hàm mọi khía cạnh hay kiến thức chung khi viết một kế hoạch, mà bạn cần phải thông minh trong việc chọn ra một vài nhân tố quan trọng mà thật sự mô tả tình huống, và sau đó giải thích các nhân tố này liên quan đến nhiệm vụ quảng cáo như thế nào. Nghiên cứu về phân đoạn thị trường và hành vi người tiêu dùng cung cấp cho tổ chức tầm nhìn có thể được sử dụng cho một bản phân tích tình huống, nhưng rốt cuộc bạn cần phải quyết định nhân tố nào trong số nhiều nhân tố thực sự là quan trọng nhất để trình bày trong quảng cáo của bạn. Đây là điều cần thiết đối với một nhà quản trị thông minh.
Giả sử bạn đại diện cho American Express. Bạn sẽ xác định tình huống quảng cáo hiện tại của công ty như thế nào? Nhân tố nào quan trọng nhất? Hình ảnh nào trong Minh họa 8.5 mà quảng cáo trước đây quyết định cho thẻ? Bạn có nghĩ rằng những quan điểm đang thay đổi về thẻ tín dụng là điều quan trọng? Còn việc lưu giữ một hình ảnh trong khi cố gắng tăng cơ sở khách hàng bằng cách chấp nhận thẻ của bạn tại các quầy hàng giảm giá thì sao? Liệu sự gia tăng thẻ vàng và platinum có quan trọng không? Lãi suất khác nhau mà các loại thẻ ngân hàng đưa ra có quan trọng đối với tình huống không? Hay việc thay đổi thái độ của xã hội về việc sử dụng thẻ tín dụng có trách nhiệm? Còn về việc mức độ nợ tiêu dùng hiện nay rất cao thì sao?
Bạn hãy nghĩ xem hoạt động marketing thẻ tín dụng bị ảnh hưởng như thê nào bởi điều kiện kinh tế hiện nay và niềm tin văn hóa về cách thức phù hợp để chỉ rõ địa vị. Vào những năm 80, người ta chấp nhận việc người quảng cáo đưa ra thẻ tín dụng với hình ảnh bê tha (ví dụ, câu khẩu hiệu của thẻ MasterCard là “MasterCard, tôi thấy chán”). Hiện nay, quảng cáo thẻ tín dụng thường chỉ ra sự khôn khéo khi sử dụng thẻ tín dụng vì đúng mục đích. Bây giờ, thay vì đề nghị bạn sử dụng thẻ tín dụng để bắt đầu chuyến đi nghỉ ở một hòn đảo khi mà bạn bắt đầu cảm thấy chán nản, thì các công ty thẻ tín dụng thường đưa ra các lợi ích chức năng cho từng loại thẻ của họ với một phân đoạn thị trường mục tiêu cụ thể trong đầu, như phản ánh trong quảng cáo của American Express.
Khuynh hướng dân chủng học cơ bản có lẽ là yếu tố tình huống quan trọng nhất trong kế hoạch quảng cáo. Dẫu cho đó là những người ra đời trong thời kỳ bùng nổ dân số, hay thế hệ X, Y, Z, nơi mà mọi người có mặt thường là nơi diễn ra hoạt động buôn bán. Khi sự phân loại theo tuổi trong dân số thay đổi theo thời gian, thị trường mới được tạo ra và loại bỏ đi. Thế hệ sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh thế giới II đã gây ảnh hưởng không cân đối đến hang hóa tiêu dùng và nhu cầu đơn giản chỉ vì quy mô của nó. Vào thời kỳ này, các công ty cung cấp hàng cho hàng chục triệu người cần phải lên kế hoạch để thu hút người tiêu dùng. Bạn hãy nghĩ về người tiêu dùng thuộc thế hệ này cần đến chăm sóc sức khỏe lâu dài, sản phẩm dành cho người già, và những thứ có thể giúp họ tiêu khiển khi về hưu. Liệu họ có được khoản thu nhập khả dụng cần thiết để có được cuộc sống phóng túng mà nhiều người trong số họ đã có trong suốt những năm làm việc của họ? Rốt cuộc thì họ không phải là những người tiết kiệm hiệu quả nhất. Và liệu những người ở độ tuổi 20 hiện nay thì sao? Khi nào bạn có xu hướng giống với bố mẹ của mình? Khi nào bạn sẽ nhìn thấy khoảng cách giữa mình và bố mẹ? Biết được thế hệ nào bạn đang nhằm mục tiêu là điều quan trọng trong phân tích tình huống của bạn.
Bối cảnh lịch sử. Không có tình huống nào hoàn toàn mới, nhưng tất cả các tình huống đều độc nhất. Làm thế nào một công ty có thể đến được tình huống hiện tại là một điều quan trọng. Trước khi cố gắng thiết kế chiến lược iPhone của Apple, một công ty đương nhiên cần biết rõ về lịch sử của tất cả những người chơi chính, ngành công nghiệp, thương hiệu, văn hóa tổ chức, thời khắc quan trọng của công ty trong quá khứ, sai lầm cũng như thành công lớn của nó. Mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và công ty, như giữa Apple và TBWA Chiat/Day, rõ ràng sẽ hỗ trợ bạn, nhưng hầu hết thì không may mắn như vậy. Tất cả những quyết định mới đều được tạo ra trong bối cảnh lịch sử của công ty, và một công ty cần phải cố gắng để tìm hiểu lịch sử đó. Chẳng hạn như liệu một công ty có ném hoạt động kinh doanh của mình vào Green Giant mà không biết chút nào về lịch sử thương hiệu và nguồn gốc đằng sau đặc điểm của Green Giant không? Lịch sử của Green Giant quay trở về nhiều thập kỷ trước, như trình bày trong Minh họa 8.7. Sự thật là dẫu cho các quyết định quảng cáo được tạo ra vào thời điểm hiện tại thì quá khứ vẫn là tác động quan trọng.
Bên cạnh giá trị bản chất của lịch sử, đôi lúc mục tiêu kinh doanh thực sự là nhằm thuyết phục khách hàng rằng công ty biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng, mối quan tâm chính của nó, và văn hóa tổ chức. Lịch sử ngắn gọn về công ty và thương hiệu được bao gồm trong kế hoạch quảng cáo để trình bày toàn bộ về nghiên cứu của công ty, độ sâu của kiến thức, và phạm vi quan tâm của nó.
Phân tích ngành. Phân tích ngành tập trung vào sự phát triển và khuynh hướng trong toàn bộ ngành và tập trung vào bất kỳ nhân tố nào khác tạo ra sự khác biệt trong cách làm thế nào người quảng cáo tiếp tục với kế hoạch quảng cáo của họ. Một phân tích ngành cần liệt kê vào thảo luận các khía cạnh quan trọng nhất của một ngành công nghiệp cụ thể, bao gồm phần cung của công thức cung cầu. Khi một quảng cáo kích cầu vượt cung, một công ty có thể có nhiều khách hàng không hài lòng. Đương nhiên đây là một mối lo ngại lớn cho Steve Jobs trong những ngày và tuần gần đến 29/6/2007.
Không có ngành công nghiệp nào đối mặt với xu hướng và sự thay đổi nhanh chóng trong sở thích của người tiêu dùng hơn là ngành công nghiệp thực phẩm. Trong những năm gần đây, xu hướng thực phẩm ăn kiêng đã gây thách thức cho những gã khổng lồ trong ngành công nghiệp này từ Nestle cho đến Hershey Foods đến H. J. Heinz đến McDonald để tìm ra sản phẩm mới và định vị lại những sản phẩm cũ để thỏa mãn mối quan tâm ngày càng tăng của người tiêu dùng về đường và tinh bột. Khi nghiên cứu trong ngành này cho bạn biết 30 triệu người Mỹ đang ăn kiêng, và 100 triệu người khác hi vọng sẽ tham gia vào điều này, đã đến lúc phải tái định vị và tái sửa đổi. Thật khó khi tưởng tượng một kế hoạch marketing và quảng cáo của bất kỳ nhà sản xuất thực phẩm nào mà không xem xét về vấn đề hàm lượng carbon trong hoạt động phân tích ngành của họ. Như trình bày trong Minh họa 8.8, không ai là được miễn.
Phân tích thị trường. Phân tích thị trường bổ sung cho phân tích ngành, nhấn mạnh phía cầu của phương trình. Trong bản phân tích thị trường, một nhà quảng cáo kiểm tra các nhân tố mà thúc đẩy và quyết định thị trường cho sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty. Đầu tiên, người quảng cáo cần quyết định chính xác thị trường dành cho sản phẩm. Thông thường thì thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nào đó đơn giản chính là người dùng hiện tại. Quan điểm ở đây là người tiêu dùng khám phá ra liệu họ có muốn sản phẩm hay không và vì vậy xác định thị trường cho chính họ, và cho người quảng cáo. Hướng tiếp cận này khá khôn ngoan. Nó đơn giản, dễ bào chữa và hơi bảo thủ. Một số nhà điều hành rất hào hứng khi chọn định nghĩa thị trường này. Tuy nhiên, nó hoàn toàn bỏ qua những người tiêu dùng mà bị thuyết phục sử dụng sản phẩm.
Một bản phân tích thị trường thường bắt đầu bằng việc chỉ ra người dùng hiện tại là ai, và (hi vọng) tại sao họ được xem là người sử dụng hiện tại. Động cơ tại sao người tiêu dùng lại sử dụng loại sản phẩm hay dịch vụ này thay cho những loại khác có thể cung cấp cho nhà quảng cáo phương tiện hướng đến việc mở rộng toàn bộ thị trường. Nếu chiếc bánh ngày càng lớn, miếng bánh của công ty cũng sẽ lớn theo. Công việc của nhà quảng cáo trong bản phân tích thị trường là tìm ra các nhân tố thị trường quan trọng nhất và tại sao chúng lại quan trọng. Cũng chính vào giai đoạn này trong phân tích tình huống và việc lập kế hoạch ngân sách đóng vai trò quan trọng.
Phân tích đối thủ cạnh tranh. Sau khi đã nghiên cứu và phân tích ngành và thị trường, sự quan tâm bắt đầu chuyển sang phân tích đối thủ cạnh tranh. Lúc này nhà quảng cáo quyết định chính xác đối thủ cạnh tranh của mình là ai, thảo luận điểm mạnh, điểm yếu, khuynh hướng và bất kỳ đe dọa nào mà họ đương đầu. Hãy xem xét đợt ra mắt sản phẩm iPhone vào năm 2007 và xem xét một danh sách dài các đối thủ cạnh tranh đang theo dõi mọi động thái của Apple. Các nhà cung cấp điện thoại lớn như T-Mobile USA, Verizon Wireless, và Sprint đeo theo dõi chặt chẽ và chuẩn bị kế hoạch quảng cáo của chính họ để phản hồi lại mối đe dọa iPhone. Ví dụ, nhà điều hành tại Verizon tự tin là chất lượng đường truyền là điểm mạnh nhất của nó và lên kế hoạch tiếp tục nhấn mạnh vào điểm này sau lần ra mắt đầu tiên của iPhone. Thêm vào đó, những nhà sản xuất điện thoại cầm tay như Nokia, LG, Samsung, và Motorola tất cả đều phải soạn thảo kế hoạch làm thế nào họ có thể đương đầu với động thái dễ dàng của Steve Jobs.
Khi các công ty cạnh tranh cố gắng đối đầu trực tiếp để dành được sự trung thành của khách hàng, người ta thường thấy những quảng cáo sử dụng những gì mà chúng ta đã xem là chiến lược định vị cạnh tranh ở Chương 6. Một minh họa đặc sắc về hướng tiếp cận này được trình bày trong Minh họa 8.9. Trong đó chúng ta thấy một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vùng (Cincinnati Bell) cạnh tranh với đối thủ tinh nghịch, Time Warner. Liên kết với đối tác của nó là DirectTV, Cincinnati Bell đang tìm cách dành khách hàng chính của Time Warner, đó là những người đăng ký mua dây cáp. Rốt cuộc thì hơi khó để cạnh tranh với luận đề “Hóa đơn mua cáp gây nhiều khó khăn”.
Mục tiêu. Mục tiêu quảng cáo sẽ làm nền tảng cho các nhiệm vụ tiếp theo trong một kế hoạch quảng cáo và có nhiều dạng khác nhau. Mục tiêu xác định mục đích của nhà quảng cáo ở những dạng cụ thể. Thông thường thì nhà quảng cáo có nhiều hơn một mục tiêu cho một chiến lược quảng cáo. Mục tiêu của nhà quảng cáo có thể là (1) tăng nhận thức và sự tò mò của người tiêu dùng về thương hiệu, (2) thay đổi niềm tin hay thái độ của người tiêu dùng về sản phẩm, (3) ảnh hưởng đến ý định mua của khách hàng, (4) kích thích dùng thử sản phẩm hay dịch vụ, (5) thay đổi người sử dụng một lần thành người mua lặp lại, (6) chuyển người tiêu dùng từ thương hiệu của đối thủ cạnh tranh sang thương hiệu của mình, hoặc (7) tăng doanh số. (Mỗi mục tiêu này sẽ được thảo luận ngắn gọn trong đoạn sau). Nhà quảng cáo có thể có hơn một mục tiêu cùng một lúc. Ví dụ, một công ty đồ bơi có thể chỉ rõ mục tiêu quảng cáo của mình như sau: duy trì hình ảnh thương hiệu của công ty với tư cách là nhà dẫn đạo thị trường trong đồ bơi nữ trưởng thành và tăng doanh thu trong dòng sản phẩm này lên 15%.
Tạo ra và duy trì nhận thức về thương hiệu là một mục tiêu quảng cáo nền tảng. Nhận thức thương hiệu là một thước đo kiến thức của người tiêu dùng về sự tồn tại của thương hiệu và mức độ dễ dàng mà kiến thức có thể hồi phục lại từ trí nhớ. Ví dụ, một nhà nghiên cứu thị trường có thể hỏi người tiêu dùng liệt kê 5 công ty bảo hiểm. Sự nhận thức đầu tiên trong trí nhớ được đại diện bằng thương hiệu mà khách hàng liệt kê đầu tiên. Mức độ dễ dàng của việc hồi tưởng lại là rất quan trọng bởi vì đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ, sự dễ dàng hồi tưởng có thể dự báo về thị phần.
Đây cũng chính là trường hợp của Aflac (Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Gia đình Mỹ), một công ty bảo hiểm đã sử dụng tiếng kêu của vịt trong chiến lược quảng cáo của nó làm phương tiện để xây dựng nhận thức thương hiệu. Nếu bạn đã từng xem những quảng cáo này, chúng tôi tin rằng bạn sẽ không bao giờ quên được con vịt đó. Nếu bạn chưa xem nó, có lẽ bạn sẽ nghĩ là việc sử dụng một con vịt để làm người phát ngôn chính có lẽ hơi ngu ngốc. Có lẽ bạn đúng hoặc không đúng, nhưng con vịt đó đã giúp Aflac trở thành nhân vật chính trong thị trường bảo hiểm Mỹ. Tương tự như vậy, Geico Gecko đã rất hiệu quả trong việc thu hút được sự chú ý cho tập đoàn Geico khi giám đốc marketing của Bảo hiểm Allstate cạnh tranh đã nói “Tôi muốn làm nó bẹp dí”.
Tạo ra, thay đổi và củng cố thái độ là một chức năng quan trọng khác của quảng cáo, và vì vậy hướng đến một mục tiêu quảng cáo chung. Như chúng ta thấy trong chương 5, một cách để thực hiện việc thay đổi thái độ mọi người là cung cấp cho họ thông tin được thiết kế để thay đổi niềm tin của họ. Có nhiều cách để hoàn thành nhiệm vụ này. Có một cách được minh họa trong quảng cáo của Bose trong Minh họa 8.10. Trong quảng cáo này, chúng ta thấy hướng tiếp cận bằng lượng thông tin dày đặc trong đó rất nhiều lập luận logic được tạo ra để hình thành niềm tin đối với tai nghe chống ồn QuietComfort 2. Đối với những khách hàng sẵn lòng hấp thu được mẩu quảng cáo phức tạp, nhiều chữ này thì những lập luận đó có khả năng chứng tỏ được sức thuyết phục. Ngược lại, một nhà quảng cáo có thể kể toàn bộ câu chuyện thông qua một bức hình như Minh họa 8.11. Ở đây hướng tiếp cận phụ thuộc vào hình ảnh trực quan và sự sẵn lòng của khách hàng. Đây không phải là một vấn đề đối với bất kỳ ai đi máy bay hạng thường. Sự thanh thản hiện rõ trên khuôn mặt của người đàn ông trẻ đẹp trai mang tai nghe chống ồn của Sony đã tự nói lên điều đó. Vì vậy một mẩu quảng cáo có thể nhắc đến Sony mà không cần bất kỳ chữ viết nào. Dẫu cho sử dụng những tranh luận trực tiếp logic, hay hình ảnh trực quan gây chú ý, quảng cáo thường được thiết kế để mang lại mục tiêu hình thành niềm tin hay thay đổi thái độ.
Ý định mua hàng là một tiêu chí phổ biến khác trong việc thiết lập mục tiêu. Ý định mua hàng được xác định bằng cách hỏi người tiêu dùng xem họ có dự định mua một sản phẩm hay dịch vụ trong tương lai gần hay không. Sự lôi cuốn của ảnh hưởng đến ý định mua hàng chính là ý định đó gần với hành vi mua thực sự, và do đó gần với doanh số bán hàng mong muốn, hơn là thái độ. Mặc dầu điều này nghe có vẻ có lý, nó cũng hàm ý là người tiêu dùng có thể bộc lộ ý định của mình với mức độ tin cậy tương đối cao. Đôi lúc họ có thể, đôi lúc họ không thể. Tuy nhiên, ý định mua hàng tương đối tin cậy chính là dấu hiệu của ý định mua tương đối, và vì vậy nó là mục tiêu quảng cáo đáng giá.
Mục tiêu dùng thử phản ánh hành vi thực sự và thường được sử dụng làm mục tiêu quảng cáo. Cứ lặp đi lặp lại, điều tốt nhất chúng ta có thể đòi hỏi trong quảng cáo là việc khuyến khích người tiêu dùng dùng thử thương hiệu của chúng ta. Vào lúc này, sản phẩm hay dịch vụ phải đáp ứng được kỳ vọng mà quảng cáo của chúng ta tạo ra. Trong trường hợp sản phẩm mới, kích thích dùng thử là cực kỳ quan trọng. Trong lĩnh vực marketing, điều tuyệt vời sẽ xảy ra khi tỉ lệ mua một sản phẩm mới hay dịch vụ cao.
Mục tiêu mua lặp lại nhằm vào tỉ lệ phần trăm người tiêu dùng thử một sản phẩm mới và sau đó mua nó lần thứ hai. Hành vi mua lần hai là lý do để ăn mừng lớn. Lợi thế của thành công sản phẩm về lâu dài sẽ tăng cao khi tỉ lệ này ở mức cao.
Chuyển đổi thương hiệu là mục tiêu cuối cùng của quảng cáo được đề cập ở đây. Đối với một số thương hiệu, việc chuyển đổi thương hiệu là điều bình thường, thậm chí đã trở thành quy tắc. Đối với những thương hiệu khác thì việc này rất hiếm, nhà quảng cáo không nên kỳ vọng quá nhiều hoặc quá hào hứng với những thành tựu tạm thời. Thuyết phục người tiêu dùng chuyển đổi thương hiệu có thể là một nhiệm vụ lâu dài và tốn kém.
(Còn nữa)» Tin mới nhất:
» Các tin khác: