Các khoản phải thu và những điều cân lưu ý khi phân tích
Các loại phải thu thường gặp: Khoản phải thu khách hàng, thương phiếu phải thu, ngoài ra chúng ta còn các khoản phải thu khác được phân loại theo nguồn gốc phát sinh: ví dụ phải thu nội bộ giữa doanh nghiệp với các đơn vị cấp dưới, hoặc giữa các đơn vị cấp dưới trực thuộc doanh nghiệp, các khoản tạm ứng của người lao động.
Việc phân tích các khoản phải thu có ý nghĩa rất quan trọng vì nó giúp đánh giá tình hình tài sản và lợi nhuận của công ty. Trên thực tế, các công ty báo cáo các khoản phải thu theo giá trị ròng có thể thu hồi được - tổng giá trị các khoản phải thu trừ đi dự phòng các khoản phải thu khó đòi.
Tuy nhiên, doanh nghiệp dựa vào đâu để xác định mức dự phòng các khoản phải thu khó đòi nào?
Ban giám đốc ước tính dự phòng các khoản phải thu khó đòi dựa trên kinh nghiệm thu nợ trong quá khứ, tình hình kinh doanh của khách hàng, tình hình nền kinh tế và ngành cũng như các chính sách thu nợ của doanh nghiệp.
Khi phân tích báo cáo tài chính, chúng ta cần hiểu rằng việc doanh nghiệp đánh giá tình hình công nợ và khả năng thu hồi nợ là dựa kinh nghiệm thu nợ trong quá khứ. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu nợ trong quá khứ có thể không phải là một yếu tố dự báo đầy đủ về khả năng trả nợ trong tương lai. Các khoản nợ khó đòi trên thực tế được ghi nhận vào dự phòng nợ khó đòi (ADA), và các khoản lỗ dự kiến liên quan đến nợ khó đòi được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp (operating expenses).
Do đó, nhiệm vụ của kế toán là cần phân tích các khoản phải thu, phải cảnh giác với những thay đổi tình hình dự phòng nợ khó đòi của doanh nghiệp, cụ thể là tỷ lệ dự phòng nợ khó đòi trên tổng doanh thu, tỷ lệ dự phòng nợ khó đòi trên tổng khoản phải thu, và cần so sánh các số liệu của doanh nghiệp với các doanh nghiệp trong cùng ngành có sự cân nhắc đến tình hình chung của thị trường. Nhà phân tích phải đánh giá liệu rằng tỷ lệ trích lập dự phòng có cùng xu hướng như các doanh nghiệp khác ko, có chênh lệch không, bởi mọi sự bất thường đều có thể cho thấy ở đây có sự quản trị thu nhập. Nhà phân tích phải hết sức cảnh giác trước những thay đổi này.
Khi phân tích BCTC, các nhà phân tích phải lưu ý rằng mặc dù ý kiến kiểm toán khẳng định về tính hợp lệ của các khoản phải thu, nhưng các nhà phân tích phải có sự phân tích nhằm phát hiện khả năng doanh nghiệp có thể sai sót trong việc đánh giá tình hình công nợ hoặc liệu doanh nghiệp có cố tình bóp méo dự phòng nợ khó đòi vì họ có thể có động cơ cá nhân trong việc quản trị thu nhập (earning management) để số liệu về lợi nhuận và tài sản đẹp hơn. Do đó, khi phân tích các khoản phải thu, các nhà phân tích BCTC cần đặt ra hai câu hỏi quan trọng sau đây khi phân tích các khoản phải thu.
Một là: Rủi ro thu nợ. Như chúng ta đã thừa nhận, doanh nghiệp trích lập dự phòng nợ khó đòi cho hoạt động kinh doanh hiện tại, cho các khách hàng trong hiện tại, tuy nhiên cơ sở trích lập dự phòng nợ khó đòi lại dựa trên kinh nghiệm thu nợ trong quá khứ, tức là doanh nghiệp dựa vào quá khứ để ra quyết định cho tình hình hiện tại. Tất nhiên là doanh nghiệp có cơ sở của họ, họ coi trọng kinh nghiệm trong quá khứ hơn, vì tương lai thường khó đoán. Tuy nhiên, các nhà phân tích BCTC cần lưu ý rằng mặc dù cách tiếp cận dựa vào kinh nghiệm trong quá khứ để ước tính dự phòng nợ khó đòi là một cách tiếp cận rất tiện lợi và thực tế, nhưng nó là một cách tiếp cận và xem xét khá máy móc, rất dễ dẫn đến sai sót.
Việc phân tích các khoản phải thu cần được dựa trên kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta về các điều kiện và tình hình của ngành để có thể đánh giá một cách đáng tin cậy về dự phòng nợ khó đòi. Thông tin để đánh giá rủi ro thu nợ thường không được thể hiện hoặc trình bày trên báo cáo tài chính. Mà chúng thường có trên các thông tin về doanh nghiệp trên các báo, bảng tin thị trường….
Vậy để đánh giá khả năng thu hồi nợ của doanh nghiệp, chúng ta cần dựa vào tỷ lệ các khoản phải thu trong tổng doanh thu của doanh nghiệp, so sánh tỷ lệ đó với tỷ lệ của các đối thủ cạnh tranh trong ngành, đánh giá liệu các khoản phải thu của doanh nghiệp có tập trung vào một hoặc một nhóm khách hàng hay không, rủi ro sẽ tăng lên khi các khoản phải thu chỉ tập trung vào một hoặc một vài khách hàng. Đây là trường hợp bỏ trứng trong cùng một giỏ đây, khách hàng đó mà phá sản, doanh nghiệp cũng sẽ gặp rủi ro phá sản theo. Xem xét kỳ thu tiền bình quân ở doanh nghiệp. Đánh giá xem có sự rút ngắn hay kéo dài kỳ thu tiền bình quân hay không. Và so sánh với các điều khoản tín dụng thông thường của ngành. Nếu kỳ thu tiền bình quân kéo dài có nghĩa là doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thu hồi vốn. Xác định tỷ trọng các thương phiếu phải thu có nguồn gốc từ các khoản phải thu được gia hạn. Điều này chứng tỏ khách hàng của doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc trả nợ và tìm cách gia hạn khoản nợ.
Vấn đề thứ 2 là tính xác thực của các khoản phải thu. Các báo cáo tài chính hoặc thuyết minh BCTC thường không cung cấp thông tin đáng tin cậy về việc số liệu về các khoản phải thu có chính xác hay không. Mà những hiểu biết về ngành và các nguồn thông tin bổ trợ sẽ giúp chúng ta kiểm định tính xác thực của các khoản phải thu. Một yếu tố ảnh hưởng đến tính xác thực của các khoản phải thu là quyền được trả lại hàng hóa. Khách hàng trong một số ngành như đồ chơi, các doanh nghiệp thương mại như shopee chẳng hạn cho phép khách hàng được hưởng quyền trả lại hàng hóa. Vậy việc phân tích của chúng ta phải tính đến vấn đề quyền trả hàng này. Các quyền trả hàng có thể làm giảm chất lượng thông tin về các khoản phải thu.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: