TIỀN, CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN VÀ CUNG TIỀN
- Phương tiện trao đổi Trước tiên và quan trọng nhất, tiền tệ là phương tiện để trao đổi, được dùng để mua và bán hàng hóa và dịch vụ. Một công nhân làm bánh không muốn được trả lương bằng 200 ổ bánh mỳ một tuần. Hay là người chủ tiệm bánh cũng không muốn nhận kẹo để trao đổi lấy bánh mỳ. Tuy nhiên, tiền lại là một phương thức thanh toán được sẵn sàng chấp nhận. tiền tệ là một phát minh của xã hội mà với nó, các nhà sản xuất và phân phối nguồn lực được chi trả, và có thể dùng để mua những thứ hàng hóa khác trên thị trường. Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ cho phép xã hội thoát khỏi sự phức tạp của việc trao đổi hàng lấy hàng. Và bởi vì nó mang lại một cách trao đổi hàng thuận tiện, tiền tệ cho phép xã hội tận dụng được ưu điểm của địa lý và sự chuyên môn hóa của con người.
- Đơn vị tính toán Tiền tệ còn là đơn vị tính toán. Xã hội sử dụng đơn vị tiền tệ - ví dụ như đô-la ở Mỹ - như là một thước đo về giá trị tương quan của hàng hóa, dịch vụ, và ngồn lực. Cũng như chúng ta đo lường khoảng cách bằng dặm, kilomet, chúng ta đo lường giá trị của hàng hóa theo đơn vị đô-la.
Với tiền tệ là một đơn vị tính toán, mức giá của mỗi loại hàng hóa cần được biểu diễn dưới dạng đơn vị tiền tệ. Chúng ta không biểu diễn giá của những con bò theo số lượng của bắp, nho. Tiền tệ hổ trợ trong việc ra quyết định bằng cách cho phép người mua và người bán so sánh dễ dàng mức giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ. Nó cũng cho phép chúng ta định nghĩa nợ, quyết định mức thuế nợ, và tính toán GDP của một nền kinh tế.
- Phương tiện cất giữ giá trị Tiền tệ còn có chức năng là phương tiện cất giữ giá trị, cho phép mọi người chuyển sức mua từ hiện tại sang tương lai. Thông thường thì người ta không tiêu dùng tất cả số tiền thu nhập họ có được vào ngày mà họ nhận số tiền đó. Để có thể mua hàng hóa ở những thời điểm khác, họ cất giữ một ít trong số tài sản của họ như tiền. Tiền tệ bạn cất giữ trong một nơi an toàn hoặc trong ngân hàng sẽ vẫn được sẵn sàng sử dụng trong vài tuần hay vài tháng sau. Khi không có lạm phát hoặc lạm phát rất ít, thì cất giữ tiền tệ là một cách ít rũi ro để cất giữ giá trị tài sản của bạn để có thể dùng trong tương lai.
Tất nhiên người ta có thể chọn cất giữ một phần hoặc tất cả tài sản của họ bằng nhiều loại tài sản khác ngoài tiền. Những thứ này có thể là bất động sản, cố phiếu, trái phiểu, các kim loại quý như vàng, hoặc kể cả những thứ sưu tầm khác như tranh vẽ nghệ thuật hoặc sách. Nhưng một ưu điểm lớn nhất mà tiền tệ có so với những loại tài sản khác, đó là tính thanh khoản, hay là khả năng tiêu dùng.
Tính thanh khoản của một loại tài sản là mức độ dễ dàng và thuận tiện mà nó có thể chuyển hóa thành các hình thức chi tiêu như tiền mặt, với hầu như không có sự giảm sút trong sức mua. Tài sản càng có tính thanh khoản cao, nghĩa là nó có thể dễ dàng chuyển thành tiền và có thể được sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ, hoặc mua những loại tài sản khác.
Mức độ thanh khoản của tài sản cũng thay đổi nhiều. Bằng định nghĩa, tiền có tính thanh khoản lớn nhất. Ngược lại, một căn nhà lại có tính thanh khoản thấp với hai lý do. Thứ nhất, nó có thể mất một vài tháng để người mua có thể tìm thấy một căn nhà và người bán bán nó với mức giá thỏa thuận, và có thể chuyển căn nhà đó thành tiền. Thứ hai, có sự giảm sút trong sức mua khi căn nhà được bán bới vì có rất nhiều loại phí liên quan cần phải trả cho người môi giới, và những cá nhân khác liên quan đến việc mua bán này.
CÁC THÀNH PHẦN CỦA CUNG TIỀN
Tiền tệ là mức giá trị của một vài loại hàng hóa hoặc nhóm các hàng hóa (không giống như thu nhập, đó là ví dụ của luồng chảy). Xã hội đã sử dụng qua nhiều loại tiền khác nhau, trong đó bao gồm cả răng cá heo, những viên đá tròn, lông đuôi voi, vàng miếng, lông thú, và những mãnh giấy. Tất cả những gì có thể được chấp nhận rộng rãi như một phương tiện thanh toán có thể được xem như tiền. Ở Mỹ, tiền mặt không phải là loại hình tiền tệ duy nhất. Như các bạn sẽ thấy, một vài loại nợ nhất định của chính phủ và các cơ quan tài chính cũng được xem như tiền.
Định nghĩa tiền M1
Định nghĩa gần nhất của cung tiền là M1, nó bao gồm:
• Tiền tệ (tiền mặt và tiền xu) hiện ở trong tay của dân chúng
• Tất cả các khoảng tiền kí gửi ở ngân hàng (các khoản tiền gửi ở các ngân hàng thương
mại, hoặc các đơn vị tài chính tiết kiệm, trong đó các khoản tiền này có thể rút ra được bất cứ lúc nào)
Chính phủ và các cơ quan của chính phủ phát hành tiền giấy và tiền xu. Các ngân hàng thương mại cung cấp những khoản tiền kí gửi. Tiền tệ: tiền xu + tiền giấy
Tiền tệ ở Mỹ bao gồm tiền giấy và tiền xu. Tiền xu được phát hành bởi Kho Bạc nhà nước, trong khi đó tiền giấy được phát hành bởi Ngân Hàng trung ương. Tiền xu được đúc ở Sỡ đúc Mỹ, trong khi tiền giấy được in ở cơ quan in ấn thuộc ngân hàng trung ương.
Với tiền tệ ở những nước khác, tiền tệ của Mỹ được gọi là tiền quy ước. Điều này có nghĩa là giá trị danh nghĩa của những loại tiền tệ đó không liên quan đến giá trị thực của nó – giá trị vật lý mà loại tiền tệ đó có là gì. Chính phủ phải đảm bảo rằng giá trị danh nghĩa của tiền tệ vượt quá giá trị thực của nó để tránh việc người ta hủy bỏ tiền xu và giấy để bán lại vật liệu cấu thành nên đồng tiền đó. Ví dụ, nếu một xu mệnh giá 50 cent, chứa trong nó giá trị của 75 cent kim loại, thì người ta sẽ nung tiền xu đó ra và bán đi số kim loại trong đó và kiếm lời.
Và vì vậy những đồng xu 50 cent sẽ biến khoải nền kinh tế.
Các khoản kí gửi Sự an toàn và tiện lợi của các khoản kí gửi đã làm cho chúng trở thành một phần lớn trong cung tiền M1. Bạn không thể hình dung đến việc bỏ hết số tiền $4896 đô la trong một phong bì và bỏ nó vào hòm thư để trả nợ. Nhưng khi viết và gửi đi một tờ séc cho một số tiền lớn như vậy thì hợp lý hơn. Người đi nhận tiền phải kí nhận vào đó (kí vào mặt sau của tờ séc); người viết tấm séc sẽ nhận được tờ séc sau khi đã được rút tiền, và xem nó như biên lai của việc hoàn thành các khoản phải thanh toán. Tương tự, việc viết một tấm séc cần phải được kí tên xác nhận, việc bị đánh cắp hay mất tờ sec của bạn không có nghĩa hoàn toàn là bạn mất số tiền như tiền mặt. Cuối cùng, viết một tấm séc với số tiền lớn sẽ thuận tiện hơn việc đếm tổng số tiền mặt. Với những lý do đó, các khoản kí gửi là một phần lớn trong cung tiền của nước Mỹ. Khoảng 44% của M1 được thể hiện dưới dạng tiền kí gửi, trong đó tiền có thể rút ra bất cứ khi nào.
Có thể bạn thấy ngạc nhiên tại sao số dư ở những khoản kí gửi lại được xem như một phần của cung tiền. Nhưng lý do thì rất rõ ràng: những tấm séc chính là cách để chuyển quyền sở hữu tài sản từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, và nó được chấp nhận rộng rãi như một phương thức thanh toán. Mặc dù séc không được chấp nhận nhiều đối với những giao dịch nhỏ như tiền mặt, nhưng hầu hết các giao dịch chính, thì người bán sẵn sàng chấp nhận séc như tiền mặt. Hơn nữa, người ta có thể chuyển các khoản kí gửi thành tiền giấy hoặc tiền xu nếu cần thiết, và vì vậy séc
Tiền, M1 = tiền mặt + các khoản kí gửi
Các cơ quan cung cấp các khoản kí gửi Ở Mỹ, có rất nhiều đơn vị cho phép khách hàng viết séc theo bất kì số tiền nào mà họ đã kí gửi. Các ngân hàng thương mại là những cơ quan chính. Họ nhận những khoản kí gửi của cá nhân, hộ gia đình, và các doanh nghiệp, cất giữ số tiền đó an toàn cho đến khi nó được yêu cầu thanh toán bằng séc, và trong khoản thời gian đó thì ngân hàng có thể dùng các khoản tiền đó để cho vay. Các ngân hàng thương mại cung cấp những nguồn vốn tài chính ngắn hạn cho các doanh nghiệp, và đồng thời cung cấp vốn cho người tiêu dùng đối với những khoản vay để mua xe và hàng hóa lâu bền khác.
Các công ty tiết kiệm và cho vay (S&Ls), ngân hàng tiết kiệm hổ trợ, và các hội tín dụng bổ sung thêm cho ngân hàng thương mại và được gọi chung là các tổ chức tiết kiệm. Các cơ quan hoặc công ty này nhận tiền kí gửi của hộ gia đình và doanh nghiệp, và sử dụng những khoản tiết kiệm này để tạo vốn bất động sản, hoặc các khoản vay khác. Tổ chức tiết kiệm nhận tiền gửi tiết kiệm của một số thành viên và cho các thành viên khác vay, thường những thành viên này làm chung trong một công ty.
Các khoản kí gửi của ngân hàng và tổ chức tiết kiệm được biết đến bằng nhiều loại tiết kiệm khác nhau. Tài khoản NOW (séc lưu thông), ATS (dịch vụ chuyển khoản tự động), và các tài khoản chung. Sự tương đồng của chúng là người kí gửi có thể việc séc để rút tiền bất cứ khi nào, và trong bất cứ khoản tiền nào họ chọn.
Hai lưu ý quan trọng Chúng ta phải lưu ý hai điểm qua trọng trong phần thảo luận trên. Trước tiên, tiền tệ được nắm giữ bởi Kho bạc nhà nước, ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại, và các tổ chức tiết kiệm bị loại bỏ ra khỏi M1 và các số đo khác của cung tiền. Một tờ tiền đô bằng giấy hay bốn đồng xu 25 cent của cô Emma Buck tất nhiên là được tính trong cung tiền là $1. Nhưng nếu chúng ta tính luôn số tiền được ngân hàng nắm giữ vào
cung tiền, cũng $1 sẽ được đếm thành $2 khi Emma kí gửi vào ngân hàng. Nó phải được đếm chỉ là $1 tiền kí gửi được sở hữu bởi Emma Buck và cũng là $1 đang ở trong tủ của ngân hàng. Bằng cách loại bỏ số tiền được nắm giữ bởi ngân hàng khi xác định tổng cung tiền, chúng ta sẽ tránh được vấn đề tính toán hai lần.
Và cũng được loại bỏ ra khỏi cung tiền đó chính là các khoản kí gửi của ngân hàng (đặc biệt là Kho Bạc nhà nước) hoặc chính quyền liên bang đang được nắm giữ bởi các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tiết kiệm. Sự loại bỏ này được thiết kế để đánh giá tốt hơn số tiền được dùng trong chi tiêu tiềm năng của nhân tố tư nhân. Số lượng tiền có được của hộ gia đình và doanh nghiệp là mối quan tâm chính của chính phủ trong việc thiết kế chính sách tiền tệ
Định nghĩa cung tiền M2
Một định nghĩa thứ hai và rộng hơn của cung tiền bao gồm M1 cộng thêm một vài mục tương đương tiền. Tương đương tiền là những tài sản tài chính có tính thanh khoản cao, không có chức năng trực tiếp hoặc hoàn toàn như là phương tiện thanh toán, nhưng có thể được sẵn sàng chuyển đổi thành tiền hoặc các khoản kí gửi. Có ba hạn mục được xem như là tương đương tiền được bao gồm trong định nghĩa M2 của cung tiền:
-Các khoản tiết kiệm, bao gồm tiết kiệm và các khoản kí thác của thị trường tiền tệ. Người kí gửi có thể dễ dàng rút tiền từ các khoản tiết kiệm tại một ngân hàng hoặc đơn gian yêu cầu số tiền được chuyển từ tài khoản tiết kiệm sang tiết kiệm kí
gửi. Một người có thể rút vốn từ quỷ kí thác của thị trường tiền tệ (MMDA), đó chính là các tài khoản có lãi suất bao gồm nhiều loại chứng khoán có mức lãi suất khác nhau. Tuy nhiên, MMDA thường có những yêu cầu về số dư tối thiểu và hạn chế số lần một người có thể rút vốn.
- Tiền gửi kỳ hạn (nhỏ hơn $100,000) Vố từ các khoản tiền gửi kỳ hạn có thể được sử dụng khi nó đến hạn. Ví dụ, một người có thể chuyển một khoản gửi kỳ hạn 6 tháng thành tiền mặt sau khoản thời gian kí gửi 6 tháng hoặc nhiều hơn mà không bị phạt. Để đổi lại sự kí gửi này, các tổ chức tài chính thường trả một mức lãi suất cao hơn so với mmdas. Và, một người có thể rút số tiền gửi kì hạn bất cứ lúc nào anh ta muốn, và phải trả một khoản phạt nào đó.
- Quỷ vốn trong thị trường chứng khoán nắm giữ bởi các cá nhân Bằng một cuộc điện thoại, sử dụng Internet, hoặc viết một tấm séc, một người có thể mua cố phiếu trong quỷ vố của thị trường chứng khoán (MMMF) được cung cấp bởi một công ty chứng khoán. Những công ty này sử dụng vốn của những cổ đông để mua những công cụ tài chính ngắn hạn có lãi suất như các chứng nhận gửi tiền cds, hoặc trái phiếu chính phủ. Sau đó họ có thể ban hành mức lãi suất đối với MMMF của những cổ đông. MMMF trong cung tiền M2 chỉ bao gồm MMMF của cá nhân, không bao gồm MMMF của các doanh nghiệp và tổ chức.
Tất cả ba loại tương đương tiền đều có tính thanh khoản cao. Vì vậy, dưới dạng công thức,
Cung tiền M2 = M1 + các khoản kí gửi tiết kiệm, bao gồm MMDAS + kí gửi có kỳ hạn
Tóm lại, M2 bao gồm các phương tiện thanh toán nhanh chóng (tiền tệ và các khoản kí gửi) tạo nên M1, cộng thêm một vài hạn mục tương đương tiền mà có thể dễ dàng chuyển hóa thành tiền hoặc các khoản kí gửi
Phạm Thị Thùy Miên» Tin mới nhất:
» Các tin khác: