Kỷ thuật mô phỏng trong đào tạo
Avarta đã tham khảo thuật họa máy tính của con người được sử dụng như một hình tượng hướng dẫn, đồng sự và những khách hàng trong những sự mô phỏng. trong cuộc sống thứ hai, một thế giới thực sự được xây dựng bởi những người sinh sống, Avarta đã sử dụng nó. Điển hình, những thực tập sinh thấy được Avarta, những người mà xuất hiện trong suốt khóa đào tạo. Ví dụ, một khóa đào tạo bán hàng tại CDW-Corporation, một sản phẩm công nghệ và dịch vụ công ty, hướng dẫn những thực tập sinh thông qua cuộc phỏng vấn giả với những khách hàng. Avarta giới thiệu tình huống khách hàng và những thực tập sinh sẽ nghe các khách hàng nói trong một đoạn hội thoại qua điện thọai được mô phỏng. Thực tập sinh sẽ quyết định với sự giúp đỡ từ Avarta những gì đang xảy ra trong tiến trình bán hàng bằng việc nhận giọng của khách hàng. Chuỗi khách sạn của tập đoàn Loews sử dụng “ Virtual leader”, một chương trình có thể giúp những người tham gia học cách làm thế nào để đạt hiệu quả trong những cuộc họp( ví dụ: làm sao để xây dựng sự liên minh, làm sao để đạt được sự phê chuẩn trong một cuôc họp chương trình nghị sự). Khi những thực tập sinh tham dự những cuộc họp mô phỏng thì những gì mà họ nói hay không nói thì sự ảnh hưởng của họ cũng liên quan đến kết quả cuộc họp.
Một sự phát triển gần đây trong sự đồng hóa là việc sử dụng công nghệ thực tế ảo. Thực tế ảo là một công nghệ máy tính mà cung cấp cho những thực tập sinh ba chiều học hỏi. Sử dụng những thiết bị đặc biệt hay mô hình góc nhìn ảo trên màn hình máy tính, những thực tập sinh duy chuyển xuyên qua những môi trường được mô phỏng và tương tác với những thành phần của nó. Kĩ thuật đã được sử dụng để mô phỏng những giác quan phức tạp của những thực tập sinh. Những thiết bị này tiếp âm thông tin từ môi trường đến các giác quan. Ví dụ, những sự tương tác âm thanh, găng tay để cung cấp một cảm giác chạm, cối xay hay nền chuyển dộng được sử dụng để taọ ra một chủ nghĩa hiện thực, môi trường nhân tạo. Những dịch vụ này cũng liên kết thông tin từ sự di chuyển của những thực tập sinh đến máy tính. Những dịch vụ này cho phép những thực tập sinh trải qua sự cảm nhận thật trong môi trường riêng biệt. Ví dụ, khóa sản xuất nâng cao của Motorola dành cho nhân viên đang trong quá trình rèn luyện đã chạy Chương trình The Paper Robotic Assembly một cách dễ dàng bằng việc sử dụng thực tế ảo. Những nhân viên được thích ứng với một khung hiển thị cho phép họ xem thế giới ảo, nơi mà có những phòng thí nghiệm không gian thực sự, người máy, công cụ và điều hành cuộc họp. Những thực tập sinh nghe và thấy những âm thanh thật và những cảnh quan như thể họ đang sử dụng một thiết bị thật. Cũng vì vậy mà thiết bị này phản ứng lại những hành động của nhân viên.
Cuộc sống thứ hai là một chiếc máy tính cơ bản, mô phỏng thế giới ảo trực tuyến, bao gồm ba hướng đại diện của thế giới thực và một nơi để điều khiển chương trình học tập hay những kinh nghiệm. Trong cuộc sống thứ hai này, Những thực tập sinh sử dụng một Avarta để tương tác với những cái khác trong phòng học, webinar, những sự mô phỏng hay những bài tập. Cuộc sống thứ hai cho phép những nhân viên học một mình hay với những người ngang hàng hay đồng đội của họ sống thư hai được sử dụng dể tạo ra những phòng học thật sự, nhưng sức mạnh của nó là khả năng để tạo ra sự mô phỏng thực tế ảo một cách chủ động liên quan đến những người học. Nnhư đặt Avarta của những thực tập sinh vào vai trò của chủ nghĩa hiện thực nơi mà họ phải liên quan đến một sự bất hòa khách hàng. Stapoil, một công ty dầu Nauy, có một nguồn dầu trong SL cho phép những thực tâp sinh đi xung quanh nó. Stapoil đã sử dụng bục dầu này để đảm bảo cho việc đào tạo. Nó bắt lửa và nhân viên phải tìm thuyền cấp cứu để thoát khỏi bục một cách an toàn
Những nhân viên ở Silicon Image đã học để tạo ra một vi mạch bằng việc khám phá một thế giới thực trong cuộc sống thứ hai đã đại diện cho một tập thể bởi tương tác với Avatar.Những nhân viên có thể viếng thăm những bộ phận của công ty trong khi xem băng ghi hình và chiếu sile để giải thích những công việc đã làm trong mỗi bài học. Dầu mỏ ở Anh đã sử dụng SL để đào tạo những nhân viên trạm xăng mới trong sự an toàn đặc biệt trong kho trữ xăng và hệ thống ống dẫn. BP đã xây dựng mô hình ba chiều của thùng chứa dầu và hệ thống ống dẫn tại trạm xăng. Những thực tập sinh cũng có thể thấy được những kho tích trữ ngầm và hệ thống ống dẫn và quan sát làm thế nào để điều khiển xăng chảy bằng những dịch vụ an toàn , cái mà họ sẽ không bao giờ làm được trong cuộc sống thực.
Như bạn có thể thấy từ ví dụ trên, sự đồng hóa có thể có hiệu quả cho một vài lí do. Đầu tiên, thực tập sinh có thể sử dụng chúng trong máy tính của họ, xét đến nhu cầu để di chuyển đến một địa điểm trung tâm huấn luyện. Thứ hai, sự mô phỏng đầy ý nghĩa, tiếp nhận những thực tập sinh liên quan đến bài học và sự chú ý dầy xúc động. Điều này giúp gia tăng sự nhiệt tình của nhân viên để thực hành, giữ lại và cải thiện những kĩ năng của họ. Thứ ba, những người giả vờ cung cấp một thông điệp kiên định những điều mà họ cần được học. Những người được huấn luyện có thể làm việc theo những bước riêng của họ và so sánh để đối diện với sự chỉ dẫn. Những người giả vờ có thể hợp thành nhiều tình huống hay vấn đề hơn để một thực tập sinh có thể chạm trán với nó. Thứ tư, sự đồng hóa có thể an toàn đặt những nhân viên trong những tình huống nguy hiểm trong thế giới thật. Thứ năm, sự mô phỏng được tìm thấy trong những kết quả chính xác như việc huấn luyện sẽ hoàn tất trong một thời gian ngắn so với những khóa huấn luyện truyền thống, và cung ứng cho sự trở lại chắc chắn vào sự đầu tư. Việc sử dụng sự mô phỏng bị giới hạn bởi những giá trị phát triển của họ. Như giá trị phát triển của sự mô phỏng tiếp tục giảm đi, họ sẽ có khả năng trở thành một phương pháp đào tạo phổ biến hơn. Giá trị mô phỏng là khác nhau. Một sự mô phỏng theo ý khách hàng có thể có giá giữa $200.000 và $300.000, trong khi một sự mô phỏng mua từ một nhà cung ứng mà không có bất kì sự sữa chữa nào theo yêu cầu của khách hàng thì giá từ $100 đến $200 cho mỗi thực tập sinh.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: