Lời giải cho các vấn đề kinh tế Việt Nam
Đâu là lời giải khắc phục những mặt yếu nhất trên đây của nền kinh tế? Trước hết, chúng ta xem xét các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Giảm lượng cung tiền để kiềm chế lạm phát; không làm cho các loại hàng hóa trên thị trường tăng giá bằng cách bán trợ giá; bù lỗ giá điện, nước, xăng dầu; rút bớt lượng tiền trong dân và doanh nghiệp thông qua việc phát hành trái phiếu... Điều chỉnh hành vi tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của người dân thông qua công cụ lãi suất; lãi suất tiền gửi cao nhằm thu hút tiền gửi tiết kiệm của người dân v.v.
Tiếc thay, những cách làm căn cơ ở trên không còn phù hợp trong một thế giới kết nối và mở cửa với cộng đồng quốc tế, khối thương mại khu vực như ASEAN, EU và cả WTO nữa.
Chẳng hạn, làm thế nào chúng ta có thể bình ổn giá xăng dầu khi chúng ta phải nhập chúng, trong bối cảnh giá dầu mỏ thế giới biến động? Làm thế nào chúng ta có thể bình ổn giá vàng trong nước khi giá vàng quốc tế tăng cao? Chúng ta cũng không quên rằng nước ta có hàng ngàn cây số đường biên giới trên biển và trên đất liền, chỉ cần chênh lệch giá các mặt hàng trên sẽ xuất hiện vô số cách buôn lậu qua biên giới.
Trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia sâu vào WTO và ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), các liệu pháp về kinh tế cổ điển nói trên cần phải phối hợp với các giải pháp thương mại quốc tế, đặc biệt là tập trung các biện pháp giảm thâm hụt cán cân thương mại và tăng sức mạnh của đồng nội tệ. Tuy vậy, giải pháp này thường phát huy hiệu quả chậm và trong một môi trường thương mại quốc tế rất biến động như ngày nay cần phải linh hoạt điều chỉnh chính sách kinh tế để phù hợp.
Lấy một ví dụ về cách điều hành chính sách của Chính phủ Singapore để minh họa: Singapore điều chỉnh cán cân thương mại quốc tế bằng cách tăng xuất khẩu hàng hóa ở các khu công nghiệp do Singapore đầu tư ở Indonesia, Việt Nam… thông qua hiệp định thương mại tự do (FTA) ký với Mỹ và EU… Khi thị trường Trung Quốc mở cửa và trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở châu Âu và Mỹ, Singapore nhanh chóng tăng tốc làm ăn với nước này. Đầu tư FDI của ASEAN vào Trung Quốc chủ yếu là của Singapore (81,2% năm 2008). Singapore hiện dẫn đầu ASEAN trong giao thương với Trung Quốc (95,3 tỉ đô la Mỹ năm 2010).
Giải quyết vấn đề thâm hụt mậu dịch của Việt Nam, cần phải hiểu rằng chúng ta là một quốc gia đông dân và giàu tài nguyên, nhân lực là lao động trẻ (cơ cấu trẻ em tuổi 0-14 của Việt Nam năm 2011 là 25,2% so với Nhật 13,1%). Vì thế, hy sinh mục tiêu dài hạn cho ưu tiên cấp thiết hàng đầu của chúng ta vẫn là tạo công việc làm cho lớp trẻ. Những năm qua nhà nước cũng đã đi theo hướng này. Tuy nhiên, chúng ta đã không kiểm soát nổi trong một số tình huống. Chẳng hạn, việc đẩy mạnh các ngành công nghiệp nặng tiêu tốn nhiều vốn như đóng tàu, lọc dầu, chế tạo ô tô... đã chưa hiệu quả như mong muốn.
Chúng ta cũng đã lập nhiều khu công nghiệp để tạo việc làm cho lớp trẻ, nhưng thay vì tập trung ở hai vùng kinh tế trọng điểm TPHCM và Hà Nội với các tỉnh lân cận hai địa phương này, chúng ta đã phá ruộng lúa, giải tỏa nhà cửa, mồ mả lập khu, cụm công nghiệp ở khắp các tỉnh thành trên cả nước, đến nỗi ở đâu cũng có khu công nghiệp, khu chế xuất trong khi đó việc đào tạo tay nghề, ngoại ngữ, giáo dục phổ thông cơ sở, giáo dục đại học cũng chưa đồng bộ với mục tiêu phát triển khu công nghiệp. Đến nay, kỹ sư, công nhân của chúng ta vẫn thiếu ngoại ngữ, kỹ năng thực hành vẫn chưa đáp ứng nhu cầu công việc của doanh nghiệp. Chúng ta vẫn ở trong tình trạng “thầy không ra thầy, thợ không ra thợ”, hoặc “nhiều thầy, thiếu thợ”.
Trong bối cảnh thương mại quốc tế phức tạp và đầy biến động như hiện nay, khi nền kinh tế Trung quốc tiếp tục vẫn là đầu tàu cho cả thế giới; khi đồng yen Nhật tăng giá, khi nền kinh tế châu Âu và Mỹ vẫn còn trì trệ, khi lao động của các nước phát triển công nghiệp càng ngày càng già và giá lao động cao, chúng ta vẫn cần tạo ra các chính sách thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài vào lắp đặt nhà máy, xưởng sản xuất ở Việt Nam.
Chúng ta vẫn rất cần các chính sách giảm giá đất khu công nghiệp và nhà ở cho công nhân để làm hài lòng nhà đầu tư và đối tượng của họ là lớp người trẻ của quốc gia. Đầu tư hạ tầng giao thông, điện nước, trường học, bệnh viện rất cần các chính sách ưu đãi để phục vụ mục tiêu sản xuất, chế biến và xuất khẩu.
Thử hỏi, làm sao nhà đầu tư có thể yên tâm khi hàng hóa của họ sản xuất, xuất nhập đều thỉnh thoảng gặp khó khăn về cung cấp điện, nước, xử lý chất thải và vận chuyển hàng hóa ra vào cảng? Làm sao lớp người trẻ ngày nay có thể tăng năng suất lao động khi họ thiếu đào tạo nghề bài bản, khi phải sống trong những căn nhà thuê mướn thiếu tiện nghi quanh các khu công nghiệp? Làm thế nào người lao động có thể tích lũy tiền mua nhà để ở khi thu nhập của họ chỉ vài triệu đồng/tháng và trong khi đó, các công ty đầu tư bất động sản vào phân khúc này phải trả giá đất và giá đền bù, giá thi công tính theo giá thị trường lên đến hàng chục triệu đồng? Làm sao có được một lớp trẻ khỏe mạnh và có giáo dục căn bản khi ngày càng thiếu đất cho xây trường và sân chơi xanh và sạch cho con trẻ?
Mạnh vì gạo bạo vì tiền. Trong mục tiêu cải thiện cán cân thương mại chúng ta cần phải “mạnh”. Nông ngư nghiệp là hai ngành tạo ra thế mạnh đó. Như đã nêu ở trên, cần tập trung đầu tư các khu công nghiệp vào hai đầu đất nước, các tỉnh khác tập trung vào nông ngư nghiệp, dịch vụ du lịch… Cần phải giữ gìn môi trường xanh và sạch của miền Trung trở thành nơi ăn, chỗ nghỉ ngơi và thưởng ngoạn du lịch của cả nước và thế giới.
Thực ra, những khó khăn hiện nay cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại cách điều hành hoạt động kinh tế vĩ mô và sửa chữa những thiếu sót trong quá khứ. Chẳng hạn, nếu chấp nhận phát triển công nghiệp tập trung ở hai vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, chúng ta đã vô hình trung chấp nhận quy luật thị trường, mở hướng đầu tư công nghiệp vào phát triển nông nghiệp. Dần dần, các hộ nông nghiệp cần diện tích lớn để khai thác hiệu quả, theo hướng canh tác công nghiệp. Các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cũng sẽ đưa công nghệ kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp. Không thể nào đặt trách nhiệm tương lai của ngành nông nghiệp vào vai của nông dân nhỏ lẻ khi giá cả hàng hóa nông sản, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng đều đang nằm trong tay các doanh nghiệp, phần lớn là các công ty đa quốc gia.
Bên cạnh đó, các khu công nghiệp không chỉ tập trung giải quyết việc làm mà dần dần chúng ta sẽ chuyển sang khâu chế biến nông thủy sản để tăng giá trị xuất khẩu cho nông nghiệp. Các chính sách giảm giá thuê đất, đầu tư công nghệ cho chế biến nông thủy sản cần phải khôn khéo áp dụng trong khuôn khổ WTO.
Một vấn đề khá nhạy cảm nữa đối với các tỉnh ven biển miền Trung trong phát triển kinh tế là tìm ra sự cân bằng trong phát triển du lịch và phát triển ngành hải sản, thậm chí cả công nghiệp. Chẳng hạn, Phú Yên là một tỉnh có vịnh Vũng Rô rất đẹp, nhưng nếu phát triển nuôi trồng hải sản, xây nhà máy lọc dầu… trong vịnh sẽ làm ô nhiễm vùng biển khiến cho du lịch không còn hấp dẫn. Thừa Thiên Huế có vịnh Lăng Cô rất đẹp nhưng phát triển khu kinh tế và cảng Chân Mây sẽ gây ô nhiễm vùng biển này. Những ví dụ này, một lần nữa cho thấy thiếu vắng một chính sách vĩ mô có tầm nhìn sẽ làm cho các địa phương vấp phải các trở lực rất lớn trong phát triển về sau.
Khi những vấn đề như lạm phát, lãi suất, thâm hụt thương mại quốc tế được phần nào giải quyết sẽ dần dần cải thiện vị thế của đồng nội tệ. Tuy vậy, sức mạnh đồng nội tệ không chỉ tập trung bằng các biện pháp hành chính mới làm được. Biện pháp giáo dục ý thức tiêu dùng, xây dựng ý thức tự trọng của dân tộc cần nên chú trọng. Một doanh nhân ở TPHCM cho biết, trong 4 ngày thăm hai thành phố Degu và Seoul của Hàn Quốc, ông ta chỉ đếm được hơn chục chiếc xe Mercedes, BMW. Toàn bộ xe hơi chạy trên đường phố Hàn Quốc đều là xe chế tạo trong nước.
Tương tự như vậy, một số công ty Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan khi sang Việt Nam kinh doanh đều sử dụng sản phẩm chế tạo từ nước mình. Trong dịp Tết vừa qua, một CEO ngành xây dựng ở TPHCM trăn trở, “Tôi đến nhà các sếp, họ toàn xài rượu ngoại, vài trăm thậm chí vài ngàn đô la Mỹ một chai”.
Ý thức tự tôn dân tộc không phải là hẹp hòi theo kiểu dân tộc chủ nghĩa. Người Hàn Quốc sử dụng xe của nước mình không chỉ để giúp “đội nhà” mà còn thử (test) sản phẩm ngay trên chính đất nước mình để hoàn thiện sản phẩm, giảm thiểu rủi ro khi đưa ra thị trường thế giới. Rượu ngoại, siêu xe, thịt bò Kobe, trái cây ngoại… làm cho cán cân thâm hụt của quốc gia tăng thêm nhưng không vì thế mà chúng ta đóng cửa các mặt hàng này khi người tiêu dùng vẫn sẵn lòng sử dụng chúng. Điều chúng ta cần là giải thích cho người dân hiểu tình thế của nước mình và họ sẽ tự điều chỉnh hành vi tiêu dùng của mình cho hợp lý.
http://www.vnep.org.vn/vi-VN/Tin-moi/Loi-giai-cho-cac-van-de-kinh-te-Viet-Nam-1602.html
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: