Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp vào các quốc gia Asean của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu có những dự án OFDI từ năm 1989 (dự án đầu tư tại Nhật Bản với tổng số vốn đăng ký hơn 563 nghìn USD). Tuy nhiên, tính đến trước năm 2006, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn mang tính chất thăm dò, thử nghiệm, với hầu hết là các dự án có quy mô nhỏ, được
thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhà nước. Sau khi Nghị định số 78/2006/NĐCP được ban hành ngày 09/08/2006 quy định về hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động đầu tư trực tiếp đã có sự nhảy vọt cả về số dự án đầu tư và lượng vốn đăng ký. Năm 2007, Sacombank là ngân
hàng đầu tiên của Việt Nam “xuất ngoại”, với việc mở văn phòng đại diện tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Việc mở văn phòng đại diện tại Trung Quốc được kỳ vọng là nhằm góp phần tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ giao thương ngày càng gia tăng của khách hàng khu vực biên giới giữa hai nước Việt - Trung, tăng cường thanh toán biên
mậu... Tuy nhiên, “vạn sự khởi đầu nan”, chỉ sau 2 năm hoạt động, văn phòng đại diện của Sacombank tại Quảng Tây đã phải đóng cửa do chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe chính phủTrung Quốc vềquy mô vốn của ngân hàng mẹ. Sau năm 2007, hoạt động OFDI của các ngân hàng thương mại có thể nói là ngày càng tăng tốc và đi vào thực chất hơn. Tính đến tháng 10/2015, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có 11 dự án đầu tư thành lập chi nhánh/ ngân hàng liên doanh ở nước ngoài Tính đến hết tháng 10/2015, có sáu NHTM Việt Nam đã đầu tưvốn thành lập ngân hàng/ chi nhánh ngân hàng ởnước ngoài với tổng cộng 11 dựán được cấp phép.
Trong đó, có tới 10 dựán OFDI được thực hiện tại các quốc gia trong khối Asean (và một dự án của Vietinbank thành lập chi nhánh tại CHLB Đức). Trong các ngân hàng
có thực hiện hoạt động OFDI, BIDV có thểnói là ngân hàng dẫn đầu trong xu hướng “xuất ngoại”. Hiện nay, BIDV là chủtịch Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam đầu tưra
nước ngoài tại ba thịtrường đầu tưtrọng điểm là Lào, Campuchia và Myanmar. Ngân hàng liên doanh Lào Việt (LVB) do BIDV sởhữu 65% vốn điều lệ(phần vốn góp của
ngân hàng Ngoại thương Lào BCEL là 35%) cũng đạt kết quảkinh doanh rất khả quan. Tổng tài sản năm 2014 của LVB là 695 triệu USD, tăng 33% so với cuối năm 2013, nợ xấu ởmức thấp là 1,75% tổng dư nợ, lợi nhuận trước thuế đạt 15,2 triệu USD, gấp 2,1 lần năm 2013, ROE đạt 14,3% (Báo cáo thường niên BIDV, 2014)... Tại thị trường Campuchia, BIDV đã góp vốn với Công ty Phương Nam thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC) vào tháng 8/2009 với số vốn điều lệ là 70 triệu USD. Tính đến tháng 5/2013, BIDC có tổng tài sản đạt 540 triệu USD tăng gấp 3,1 lần so năm 2009; dư nợ tín dụng đạt 380 triệu USD gấp 4,4 lần so với năm 2009; huy động vốn đạt gần 160 triệu USD tăng gấp 1,5 lần so năm 2010. Bên cạnh dựán Ngân hàng liên doanh Lào Việt, ngân hàng BIDC tại Campuchia, BIDV cũng đang tích cực xin thành lập ngân hàng con tại Myanmar và dự kiến sẽ hoàn tất thủ tục vào cuối năm 2015.