Education in Vietnam (P.1)
Introduction
K-12 Education System
Public Education vs. Private Education
Development Process & Current Trends
Role of Private University
Policy for Disabled Students
Rule of Law
Education Plan
Conclusion
-----
Introduction
Nhiều người biết đến Việt Nam qua Vietnam War. Đây là một dấu ấn đậm nét, khó có thể phai mờ trong tâm trí của nhiều thế hệ người dân ở cả 2 quốc gia: Việt Nam và Hoa Kì.
Gần 50 năm sau cuộc chiến, đã có rất nhiều sự thay đổi tích cực từ cả 2 phía, đặc biệt là trong quan hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục. Số lượng du học sinh Việt Nam sang Hoa Kì ngày một nhiều hơn theo thời gian, đặc biệt là sau năm 1995. (US Embassy, 2016)Chúng tôi cho rằng, đây là thành quả của quá trình phát triển về nhiều mặt của Việt Nam, nhất là trong chính sách giáo dục.
K12-Education System
Ngay từ buổi sơ khai, khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ và lập ra một nền dân chủ cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã chỉ rõ: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ trợ giúp”.[1]Chủ trương đó tiếp tục được phát huy và khẳng định thông qua Hiến pháp 2013 của Việt Nam. Cụ thể:
Điều 37.
1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.
Điều 61.
1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề.
Các điều khoản nêu trên cho chúng ta thấy nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, “bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc” và miễn phí cho bậc học này. Nhà nước cũng thấy được tầm quan trọng của giáo dục trong quá trình “nâng cao dân trí, phát triển nguồn lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay được phân chia theo các cấp giáo dục[2]như sau:
Tiểu học (cấp 1) |
Lớp 1-5 |
6-11 tuổi |
Trung học cơ sở (cấp 2) |
Lớp 6-9 |
12-15 tuổi |
Trung học phổ thông (cấp 3) |
Lớp 10-12 |
16-18 tuổi |
Đối với giáo dục,
Trong xu thế toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, việc tăng kinh phí cho hoạt động giáo dục, huy động tối đa mọi nguồn lực từ các khu vực kinh tế khác nhau nhằm phục vụ sự nghiệp giáo dục và đào tạo càng trở nên tất yếu. Vì thế, ở Việt Nam một loạt các trường tư thục, trong đó có các trường đại học đã được thành lập và đi vào hoạt động từ đầu những năm 90 đến nay.
Sau giáo dục phổ thông là giáo dục đại học và sau đại học. Tuy nhiên, thực trạng ở Việt Nam cho thấy trong tư tưởng của nhiều gia đình Việt, giáo dục vẫn có xu hướng nặng về bằng cấp. Thanh niên Việt Nam phải đi học đại học để có một tấm bằng làm “tấm vé” thông hành để xin việc tại các công ty, cơ quan nhà nước.
Nhiều sinh viên vẫn chỉ xác định là đi học để có tấm bằng còn chưa xác định được sẽ làm công việc có đúng với chuyên ngành mình đã học hay không.
Một thực trạng đáng báo động là hiện nay nhiều đại học, cao đẳng của Việt Nam vẫn chỉ chú trọng đến việc giảng dạy kiến thức trong sách vở cho người học mà quên đi đào tạo những kiến thức thực hành. Trong các chương trình đào tạo, thời lượng học lý thuyết chiếm 2/3, còn lại rất ít thực hành. Do vậy, khi ra trường nhiều sinh viên nước ta phải học những kỹ năng rất nhỏ như: Sử dụng máy fax, photo… mà những kỹ năng này lại rất cần thiết cho công việc.
Đặc biệt, ngoại ngữ chính là khó khăn lớn nhất với lao động trong nước. Nhiều lao động vì hạn chế ngoại ngữ nên rụt rè trong quá trình giao tiếp với người nước ngoài và nhiều khi đã mất cơ hội việc làm tốt, lương cao. Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người dân nhưng dường như chưa thực hiệu quả. Các em học chỉ vì tấm bằng và vì gia đình, nhà trường bắt học còn học, chưa coi đó là mục tiêu thiết thực.
Để bắt kịp với đòi hỏi về mặt thay đổi của xã hội, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đang dần dần của những chuyển biến rõ rệt, đặc biệt là trong giáo dục công lập và dân lập, tư thục. (còn nữa)
Tháng 4/2017
TS. Phan Thị Nhật Tài - ThS. Trần Tuấn Đạt
[1]Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; trang 10-11.
[2]Trước đây của hệ thống giáo dục phổ thông tại Bắc Việt Nam là 10 năm, tại Nam Việt Nam là 12 năm, sau khi thống nhất đát nước từ 1975 thì đến năm 1981, cả nước mới áp dụng chung hệ 12 năm.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: