Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
+ Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP. Do số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác. Nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước tỷ trọng doanh thu của khu vực DNVVN theo qui mô lao động (dưới 300 lao động) năm 2004-2006 là 81,5 % -86,5% . Điều đó chứng tỏ các DNVVN có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế
Bảng : Tỷ trọng doanh thu DNVVN trong nền kinh tế:
Năm |
Toàn bộ doanh thu (tỷ đồng) |
Tỷ trọng doanh thu DNVVN (%) |
Chia ra theo quy mô lao động (%) |
||
Dưới 5 người |
Từ 5 – 200 người |
Từ 200 – 300 người |
|||
2003 |
364.844 |
86,5 |
4,9 |
74,2 |
4,4 |
2004 |
485.104 |
82,0 |
4,2 |
70,6 |
7,3 |
2005 |
640.087 |
81,5 |
4,4 |
72,5 |
4,6 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2006
Về đóng góp vào GDP :từ chổ tỷ lệ GDP của khu vực DNVVN không đáng kể vào đầu những năm 1990, đến nay tỷ lệ này khoảng từ 24% đến 25,5%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì đây là mức thấp nhất.
+ Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Với tính linh hoạt của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh thậm chí với cả các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời nhiều DNVVN đóng vai trò là vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động trong sản xuất làm tăng hiệu quả của chính các DNVVN cũng như các công ty hợp tác.
+ Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp.
Hiện nay, do tỷ lệ dân số cao trong những năm trước đây, hàng năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu người gia nhập vào lực lượng lao động. Vấn đề giải quyết việc làm cho những người này là rất cấp thiết. Bên cạnh đó, khu vực DNNN hiện đang thực hiện sắp xếp lại nên không những không thu hút thêm lao động mà còn tăng thêm số lao động dôi dư. Khu vực đầu tư nước ngoài mỗi năm cũng chỉ tạo ra khoảng 30.000 chổ làm mới, một tỷ lệ không đáng kể. Như vậy, phần lớn số người tham gia lực lượng lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và khu vực DNVVN.
Các DNVVN đã tạo nhiều việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao. Nếu không kể hộ kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm 7% lực lượng lao động trong các ngành kinh tế, hay 20% lực lượng lao động phi nông nghiệp, hoặc 85,2% số lao động trong khu vực doanh nghiệp. Nếu kể cả hộ kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm khoảng 19% lực lượng lao động làm việc trong tất cả các ngành kinh tế (nguồn: xây dựng chiến lược hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010, Bộ kế Hoạch Đầu Tư, năm 2006). Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là các DNVVN có mức tăng trưởng cao về lao động trong những năm qua. Số lao động tại khu vực này đã tăng 2,36 lần trong năm 2004 so với thời điểm năm 1997, so với 1,06 và 1,35 lần của các khu vực doanh nghiệp nhà nước và hộ kinh doanh cá thể.
+ DNVVN có vai trò to lớn trong việc phát huy tiềm năng huy động mọi nguồn lực xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Dựa vào ưu thế của mình, các DNVVN khởi sự thành lập với số vốn nhỏ nhưng có khả năng thu hồi vốn nhanh, có khả năng hy vọng vốn tự có hay vay mượn của bạn bè, thân nhân trong gia đình, sử dụng và tận dụng các tiềm năng về nguồn vốn, lao động và nguyên vật liệu sẵn có tại chổ, theo ước tính vốn đầu tư của DNVVN chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội. Các DNVVN do ít vốn, quản lý đơn giản, linh hoạt và dễ thích nghi với điều kiện biến đổi của thị trường nên thường được thành lập và hoạt động tại địa phương có nguồn nguyên liệu tại chổ hay vùng phụ cận để dễ dàng sử dụng, dễ được cung cấp với giá rẽ và đỡ tốn chi phí vận chuyển. Do vậy, các DNVVN có khả năng sản xuất một khối sản phẩm, dịch vụ tương đối lớn đáp ứng cho nhu cầu của xã hội với giá rẽ hơn và thuận lợi hơn.
+DNVVN là nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ nông ngiệp và sản xuất nhỏ lên nền sản xuất CNH-HĐH.
Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặc khác, sau một thời gian thành lập và hoạt động, các doanh nghiệp làm ăn thuận lợi đều có xu hướng phát triển bằng cách nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và trong những điều kiện thuận lợi nhất định các DNVVN có thể từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và từ tận dụng máy móc thiết bị cũ, sữa chữa lại tiến tới đổi mới trang thiết bị, cải tiến hệ thống dây chuyền sản xuất, đào tạo lại người lao động nhằm nâng cao tay nghề, nâng cao năng lực trình độ quản lý. Sự đổi mới tới mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, điều đó góp phần vào quá trình CNH-HĐH đất nước trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Việc phát triển các DNVVN cũng đưa đến việc tổ chức lại sản xuất, hợp lí hoá sự phân công hợp tác xã hội.
+DNVVN là tiền đề tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Đây là điều rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã ở trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung khá lâu. Vì vậy, môi trường văn hóa kinh doanh mang tính thị trường gần như không tồn tại hoặc không có cơ hội phát triển, đội ngũ doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành các doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn chế. Vì vậy, việc tạo ra môi trường văn hoá kinh doanh mang tính thị trường cũng như một đội ngũ kinh doanh giỏi là điều kiện cực kỳ quan trọng để Việt Nam có thể hội nhập thành công.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: