-
Hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Nhiều nội dung quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới kinh tế – xã hội chậm được thể chế hoá như: vấn đề quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước; về đăng ký kinh doanh bất động sản; cạnh tranh trung thực; kiểm soát độc quyền.
-
Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao. Ví dụ, Luật Cạnh tranh, tuy được ban hành từ năm 2004, song hiệu lực thực thi còn thấp, vẫn còn nhiều khe hở để một số doanh nghiệp lạm dụng vị thế khống chế thị trường — điều đó đã làm tổn hại lợi ích của xã hội nói chung và những doanh nghiệp nhỏ nói riêng.
-
Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp: Những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh.
-
Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng: còn nhiều cứng nhắc và nhiều bất cập, cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương; chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của người dân.
-
Quá trình cải cách các DNNN hiện vẫn đang gặp nhiều khó khăn và hạn chế cần được khắc phục, trong đó quan trọng nhất phải kể đến là:
- Các DNNN có quy mô lớn, nhưng hoạt động kém hiệu quả.[8] Trong những năm gần đây, DNNN càng kinh doanh càng lỗ. Theo Kiểm toán Nhà nước năm 2014: 5/50 Cty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng; 11/31 Cty do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng; 7/24 Cty do Tổng Cty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339, 6 tỷ đồng; 6/57 Cty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118, 3 tỷ đồng; Hiện DNNN chiếm 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn Nhà nước, 60% tín dụng, 79% tổng nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA, thế nhưng chỉ đóng góp khoảng 30% tăng trưởng GDP. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế như: ngân hàng, năng lượng, cơ khí, hóa chất..., nhưng hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được kỳ vọng. Vai trò kinh tế của khu vực DNNN trong thời gian qua chưa cao và đang ngày càng suy giảm. Phần lớn DN Nhà nước ở Việt Nam mặc dù có hệ số nợ cao hơn nhiều so với các DN tư nhân, tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ (ROE) của các DNNN lại rất thấp do sử dụng đòn bẩy tài chính kém hiệu quả.
-
Nhiều DNNN có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực: máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, 38% thiết bị chờ thanh lý. Tốc độ đổi mới công nghệ chậm (khoảng 10%/năm); các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, hiện đại, như điện tử, tin học và dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao chưa nhiều.
-
Về giải quyết việc làm mới cho xã hội cũng không đáp ứng yêu cầu. Hiện chỉ có trên 2 triệu lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
-
Năng suất lao động trong công nghiệp chưa có tiến bộ đáng kể. Trong các thành phần kinh tế, năng suất lao động của DNNN thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đến 2 lần.
-
Sức cạnh tranh cuả các DNNN còn rất yếu. Các DNNN chưa chứng minh được sự khác biệt về năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Chất lượng phát triển của DNNN trong thời gian qua còn khoảng cách khá xa mới đáp ứng được yêu cầu vươn lên đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật của DNNN chưa thể nói là tấm gương để các thành phần kinh tế khác noi theo. Hiệu quả và sức cạnh tranh thấp so với các nước là thách thức lớn khi ta hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế và khu vực.
Tuy nhiên, do đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi và kém phát triển, nhiều yếu tố của môi trường kinh doanh chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và đang trong quá trình vừa hình thành vừa hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện thể chế kinh doanh diễn ra còn chậm so với cam kết hội nhập và mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư. Khung khổ pháp lý vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự minh bạch và dễ dự đoán. Trên thực tế vẫn còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, hiện tượng tham nhũng còn khá phổ biến, nhiều biện pháp can thiệp của Nhà nước vào thị trường chưa thực sự hiệu quả, phân bổ nguồn lực xã hội còn tập trung chủ yếu trong các công ty nhà nước...
Trong khi đó tình trạng của thể chế công ty cũng còn nhiều bất cập, nhiều công ty hoạt động thiếu chiến lược kinh doanh, chỉ biết chớp lấy cơ hội trước mắt, xem nhẹ đạo đức trong kinh doanh, hiệu lực của chế độ kế toán và kiểm toán thấp,...
Thể chế yếu kém là nguyên nhân quan trọng khiến cho sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu cả trên ba cấp độ quốc gia, ngành/sản phẩm và doanh nghiệp.