Nguyên nhân của sự bất bình đẳng về thu nhập
Có một vài nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng về thu nhập ở Mỹ. Nhìn chung, hệ thống thị trường cho phép tạo ra một sự bất bình đẳng về thu nhập ở cấp độ cao bởi vì nó là phần thưởng cho những cá nhân dựa trên sự đóng góp của họ hay nguồn lực mà họ sở hữu để tạo tổng sản phẩm quốc nội cho xã hội.
Cụ thể hơn, những nhân tố góp phần tạo nên sự bất bình đẳng về thu nhập được cho dưới đây.
Khả năng
Mỗi người đều có trí tuệ, sức khỏe và năng khiếu thẩm mỹ khác nhau. Một số người được thừa hưởng khả năng trí tuệ cao mà cần thiết để làm những công việc có thu nhập cao như bác sỹ, người lãnh đạo trong công ty, và luật sư. Một số khác lại có may mắn sở hữu khả năng sức mạnh cở thể để trở thành những vận động viên và cũng được nhận những khoản thu nhập cao. một số khác thì có tài năng để trở thành nghệ sỹ, ca sỹ nổi tiếng hay có sắc đẹp để trở thành người mẫu thời trang hàng đầu. một số khác thì lại không được thông minh cà có thể làm những công việc với thu nhập thấp hơn hay có thể không thể kiếm được đồng nào. Sự thông minh và kỹ năng của hầu hết mọi người đều có thể rơi vào khoảng giữa của hai loại này.
Giáo dục và đào tạo
Khả năng không tốt hiếm khi có được khoảng thu nhập cao; người ta phải phát triển và rèn luyện năng lực của mình thông qua việc giáo dục và đào tạo. Mỗi cá nhân khác nhau về số lượng các chương trình giáo dục và đào tạo mà họ nhận được do đó nó ảnh hưởng đến khả năng tạo ra thu nhập của họ. sự khác biệt này có thể là vấn đề của sự chọn lựa: Nguyen tham gia vào lực lượng lao động sau khi tốt nghiệp cấp 3 trong khi Nyberg chỉ tìm việc làm sau khi có được bằng đại học. Sự khác biệt có khi lại không chủ tâm: Nguyen và bố mẹ cô ấy có thể không có khả năng tài chính để trang trải cho việc học đại học của Nguyen.
Người ta cũng có thể nhận được các cấp độ đào tạo tại công việc khác nhau mà góp phần tạo nên sự bất bình đẳng về thu nhập. Một vài công nhân thì học được những kỹ năng mới tại công việc qua mỗi năm và vì thế họ có khả năng phát triển thu nhập của mình qua thời gian; một số khác thì lại có ít hoặc không có bất cứ chương trình đào tạo tại công việc nào và do đó thu nhập của họ vào năm họ 50 tuổi không nhiều hơn so với năm họ 30 tuổi. Mặt khác, công ty thường áp dụng chương trình đào tạo tại công việc cho những công nhân có giáo dục chính quy nhiều nhất. Điều này góp phần làm mở rộng sự khác biệt trong thu nhập dựa trên giáo dục giữa những cá nhân ít giáo dục hơn và những cá nhân có giáo dục tốt hơn.
Sự phân biệt đối xử
Sự phân biệt đối xử trong giáo dục, tuyển dụng, đào tạo và thăng tiến là những nguyên nhân chắc chắn tạo nên một vài bất bình đẳng về thu nhập. Nếu sự phân biệt đối xử trong chủng tộc, tôn giáo hay nhóm giới tính nào đó dẫn đến người lao động thuộc những nhóm người này sẽ chỉ có được nghề nghiệp với mức lương thấp thì khả năng cung cấp nguồn nhân lực trong những nghề nghiệp này sẽ tăng lên để đáp ứng với nhu cầu lao động và tiền lương theo giờ và thu nhập trong những công việc với mức lương thấp sẽ bị suy tàn. Ngược lại, khả năng cung cấp nguồn nhân lực trong những nghề có thu nhập cao sẽ giảm một cách giả tạo bằng những “ưu đãi” cho nhân viên, tỷ lệ tiền lương và thu nhập của họ tăng lên. Với điều này, phân biệt đối xử có thể làm tăng sự bất bình đẳng về thu nhập. Thực tế, những nhà kinh tế học không thể tính toán hết được tất cả chủng tộc, tôn giáo hay giới tính khác nhau trong công việc mà có thể kiếm được những khoản thu nhập khác nhau thông qua số năm được giáo dục tại trường, chất lượng giáo dục, nghề nghiệp và số giờ làm việc hằng năm. Nhiều nhà kinh tế học cho là phần còn lại không thể giải thích được trong sự bất bình đẳng về thu nhập là do sự phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, những nhà kinh tế học không thấy được rằng chủng tộc, tôn giáo hay giới tính là những nhân tố chính tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập. Phân phối thu nhập liên quan tới nhóm chủng tộc, tôn giáo về phương diện lịch sử cũng đã có mục tiêu của sự phân biệt đối xử - ví dụ, người Mỹ gốc Phi có phân phối thu nhập tương đương người da trắng. Một số nhân tố khác bên cạnh sự phân biệt đối xử là ở sự rõ ràng trong công việc.
Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử thì quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cá nhan và đầu vào và tổng sản phẩm quốc nội của toàn xã hội. Chúng ta sẽ thảo luận nó chi tiết hơn trong phần sau của chương này.
Sự ưu tiên và khả năng chấp nhận rủi ro
Thu nhập khác nhau cũng bởi vì sự khác nhau trong sự ưu tiên cho những thị trường lao động mà có liên quan đến thời gian nhàn rỗi hay công việc gia đình hay loại hình nghề nghiệp. Người ta có thể chọn việc ở nhà với con cái họ, làm việc bán thời gian, hay nghỉ hưu sớm, những trường hợp này thường có thu nhập ít hơn so với những người có lựa sự lựa chọn ngược lại với nó. Những người sẵng sàng đối mặt với những công việc khó khăn, công việc không mấy vui vẻ (làm việc dưới mỏ than hay công trường xây dựng) mà phải làm việc hàng giờ trong cường độ mạnh, hay những công việc ngoài giờ vào ban đêm thì thường có được thu nhập cao hơn.
Những cá nhân cũng có sự khác nhau trong việc sẵng sàng đối mặt với sự rủi ro. Ở đây, chúng ta không chỉ đề cập đến công việc của những tay đua tốc độ, những vận động viên boxing mà còn là công việc của những nhà doanh nghiệp. Mặc dù nhiều chủ doanh nghiệp bị thua lỗ, nhưng một số khác thì lại rất thành công trong việc phát triển sản phẩm và dịch vụ mới để nhận được những khoản thu nhập khổng lồ. Chính điều này cũng góp phần vào sự bất bình đẳng về thu nhập.
Phân phối tài sản không công bằng
Thu nhập là mộtdòng chảy, nó đại diện cho những khoảng tiền kiếm được, cùng với nó là các khoản tiền cho thuê, lãi suất và lợi nhuận như đã được mô tả trong biểu đồ ở chương 2. Ngược lại với nó, tài sản là một kho dự trữ, nó phản ảnh khoản tài chính cụ thể và tài sản thực sự mà một cá nhân tích lũy được qua thời gian. Một người về hưu có thể có thu nhập ít ỏi và chưa có nhà ở, có một số cổ phiếu chung và những khoản trợ cấp về hưu, tất cả những cái này được thêm vào đáng kể cho tài sản của họ. Một sinh viên vừa mới tốt nghiệp đại học có thể kiếm được thu nhập lớn như một kế toán viên hoặc một nhà quản trị cấp trung hay một kỹ sư nhưng chưa được tính như là người sở hữu tài sản.
Khi bạn tìm hiểu về Last Word trong chương này những người sở hữu tài sản ở Mỹ thì bất công bằng hơn phân phối thu nhập. Sự bất cân bằng về tài sản này thường dẫn đến sự bất cân bằng về giá thuê, lãi suất và cổ tức mà góp phần vào sự bất bình đẳng về thu nhập. Những người sở hữu nhiều máy móc, bất động sản, nông trại, chứng khoán và các khoản tiết kiệm thường nhận được những khoảng thu nhập lớn từ việc sở hữu chúng hơn là những nhường có ít tài sản hơn hoặc không có tài sản.
Quyền lực thị trường
Khả năng “sắp đặt thị trường” vì lợi ích của một người nào đó cũng góp phần vào sự bất bình đẳng về thu nhập. Ví dụ, trong một thị trường nào đó mà nhóm liên kết hoặc nhóm chuyên gia nào đó phải thích nghi với các chính sách mà giới hạn khả năng cung cấp dịch vụ của họ, do đó tăng thu nhập “từ bên trong” của nó. Cũng thế, luật pháp yêu cầu những nghề được cấp phép mới có thể hành nghề như bác sỹ, nha sỹ hay luật sư có thể dành cho những thị trường mà ưu tiên cho những nhóm được cấp phép này. Trong thị trường sản phẩm, “sắp đặt thị trường” có nghĩa là đạt được và nâng sức mạnh độc quyền, mà kết quả là tạo ra lợi nhuận lớn và đó đó thu nhập lớn hơn chủ sở hữu ở những công ty khác.
Sự may mắn, sự liên kết và sự rủi ro
Một số nhân tố khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập. Sự may mắn và “tồn tại đúng nơi và đúng thời điểm” cũng thể giúp đỡ cá nhân có được vận may. Tìm ra được một mỏ dầu ở nông trại, sở hữu một khu đất dài mà chuẩn bị được quy hoạch thành đường cao tốc, và hiring the right agent được tính đến như là một số khoản thu nhập cao. Những người có liên lạc hoặc liên kế với chính trị thù những tiềm năng khác có thể đạt được thu nhập cao.
Ngược lại với nó là sự rủi ro trong kinh tế như là sự đau ốm triền miên, tai nạn nghiêm trọng, cái chết của người trụ cột trong gia đình hay sự thất nghiệp có thể làm cho một gia đình rơi vào danh sách những hộ gia đình có thu nhập thấp. Gánh nặng của sự rủi ro có thể rơi vào bất kỳ thành phần nào trong dân số và do đó nó góp phần tạo nên sự bất bình đẳng về thu nhập.
Độ lớn của sự bất bình đẳng về thu nhập mà chúng ta mô tả không chỉ là hiện tượng ở Mỹ. Viễn cảnh toàn cầu ở biểu đồ 20.1 so sánh sự bất bình đẳng về thu nhập (ở đây là cá nhân, không phải là hộ gia đình) của Mỹ với một vài quốc gia khác. Sự bất bình đẳng về thu nhập lớn nhất ở Nam Mỹ, nơi mà đất và nguồn vốn chủ yếu tập trung trong tay của một số nhở gia đình giàu có.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
Nguồn: N.Gregory Mankiw, 5th edition (2008), Principles of MicroEconomics, South Western CENGAGE Learning
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: