Một vài vấn đề cơ bản về PBL
1. Khái niệm – cách hiểu đúng về PBL
a. Nguồn gốc - Khái niệm – “đích đến” của PBL
Nguồn gốc của thuật ngữ PBL (Problem-based Learning) bắt nguồn từ Don Woods khi ông này giảng dạy cho các sinh viên chuyên ngành hóa học của mình tại McMaster University tại Canada. Tuy nhiên, thuật ngữ PBL chỉ thực sự nổi tiếng trên thế giới sau khi phương pháp giáo dục hiện đại này được áp dụng rộng rãi tại khoa y của McMaster University.
Quá trình học theo phương pháp PBL chủ yếu dựa vào công việc giữa các nhóm nhỏ.
Hiện nay có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về PBL: (Graaff & Kolmos, 2007)
- A problem a day: Được phát triển bởi trường Republic Polytechnic, Singapore và được đặt tên là “one-day one-problem approach” (mỗi ngày một bài toán). Với cách tiếp cận này, sinh viên sẽ dành nguyên một ngày để nghiên cứu một vấn đề. Sau một tuần học, sinh viên sẽ nghiên cứu được 5 vấn đề khác nhau nhưng có liên quan đến nhau.
- Problem-based Learning Online: Sử dụng phương pháp giảng dạy trực tuyến kết hợp với PBL
- Promblem-based Learning in Early Years Education: Giáo dục theo PBL từ thời niên thiếu.
b. Mô hình PBL của ĐH Aalborg
Trong những năm 70 của thế kỉ XX, tại Đan Mạch có 2 trường ĐH được thành lập: Roskilde University Centre vào năm 1972 và Aalborg University vào năm 1974.
Dưới đây là mô hình của một học kì được thiết kế theo phương pháp PBL của ĐH Aalborg, Đan Mạch.
Hình 1 - Mô hình giảng dạy PBL của ĐH Aalborg, Đan Mạch
c. Điều kiện để triển khai
Từ lý thuyết cơ bản của PBL là quá trình học chủ yếu dựa trên các nhóm nhỏ nên điều kiện tiên quyết của việc tổ chức các lớp học theo PBL là số lượng sinh viên của lớp học không nên vượt quá 30 sinh viên/lớp. 30 sinh viên/lớp với số lượng thành viên mỗi nhóm nhỏ là 4-6 sinh viên/nhóm sẽ giúp cho số lượng nhóm không vượt quá 5 nhóm, thuận tiện hơn cho giảng viên trong quá trình tương tác với nhóm. (Graaff & Kolmos, 2007)
d. Các bên liên quan trong việc giảng dạy theo PBL
Tác giả (Powell, 2003) đã từng phát biểu rằng: “Thách thức lớn nhất đối với lãnh đạo của một trường đại học tính tới thời điểm hiện tại là thuyết phục đội ngũ giảng viên của mình từ bỏ thực tiễn giảng dạy quen thuộc đang áp dụng hàng ngày để đầu tư công sức vào một hình thức giáo dục mới trong đó có rất nhiều lối tư duy mới được thực hiện”.[1]
2. Vai trò của giảng viên theo tiếp cận BPL
a. Trên lớp
Một trong các nguyên lý của PBL đó là đề cao vai trò của giảng viên trên lớp với điều kiện người giảng viên đó phải được và đã trải qua quá trình học hỏi và trau dồi kinh nghiệm từ một tập thể các đồng nghiệp có cùng quyết tâm đổi mới phương pháp sư phạm theo PBL.
b. Ngoài lớp học
Đã có một câu chuyện hết sức thú vị tại University of Aveiro, Bồ Đào Nha liên quan đến việc tổ chức giảng dạy PBL cho sinh viên. Cụ thể, để quá trình thực hiện việc giảng dạy PBL diễn ra một cách thành công, đáng lý ra nhà trường phải chỉ định một người lãnh đạo tại đơn vị chịu trách nhiệm triển khai. Tuy nhiên, trên thực tế không có ai được chính thức bổ nhiệm. Mặc dù vậy, một giảng viên của trường đã xuất hiện, nổi bật lên theo một cách rất tự nhiên và đã lôi kéo được sự hưởng ứng và ủng hộ của các giảng viên khác trong khoa và trong trường vì sự nhiệt tình, gắn kết và những đề xuất của mình.[2]
3. Triển khai thực hiện giảng dạy theo PBL
a. Sơ lược thực hiện
Thực tế đã chứng minh, nếu giảng viên liên tục sử dụng phương pháp thuyết giảng sẽ gây nhàm chán cho người học. Kể cả là thuyết giảng kết hợp với các phương tiện kĩ thuật khác như video và/hoặc máy chiếu.
Người học tích cực tham gia vào bài học khi người học thực sự cảm thấy vấn đề học liên quan trực tiếp đến bản thân mình.
Trong môn học Quản trị chiến lược – PSUMGT 403, môn học được thiết kế như sau:
i. Xuyên suốt các tiết học là một bài tập nhóm. Nội dung của bài tập nhóm được tính toán cụ thể để gắn liền với tất cả bài học. Được chỉnh sửa từng phần thông qua việc thuyết trình và góp ý của giảng viên.
ii. Đối với từng bài học, sau bài học sinh viên sẽ được làm một bài tập multiple-choice để tổng kết phần lý thuyết.
iii. Sau khi hoàn thành bài tập nhóm. Sinh viên giao bài tập nhóm của mình cho một nhóm khác để thực hiện phần tư vấn chiến lược.
iv. Hoàn thành phần tư vấn chiến lược, nhận được góp ý và phản hồi của giảng viên, sinh viên chỉnh sửa bài tập nhóm lần cuối, nộp lại dưới dạng bản mềm slide bài tập nhóm + bản tư vấn chiến lược để giảng viên lưu và làm tư liệu giảng dạy cho các lớp học kế tiếp.
v. Sinh viên thống nhất và tự đánh giá kết quả việc đóng góp của thành viên trong nhóm trên thang điểm 100.
Như vậy, kết thúc môn học, sinh viên sau sẽ có được:
i. Lý thuyết về môn học và kinh nghiệm làm multiple-choice test để thi KTHP.
ii. Kết quả và kinh nghiệm từ bài tập nhóm có thể áp dụng cho các môn học khác có liên quan cũng được thiết kế theo PBL.
iii. Có được kĩ năng tư vấn chiến lược ở mức độ cơ bản.
iv. Cá nhân bộc lộ rõ những nhược điểm của trong quá trình làm việc nhóm.
b. Khó khăn & kinh nghiệm
Rào cản về ngôn ngữ.[3]
Sinh viên đi học không đều đặn sẽ không hiểu được bài.
Sinh viên nếu đăng ký sai lộ trình học, ví dụ như sinh viên năm 2 đăng ký môn học năm 4 sẽ không có khả năng ngoại ngữ và kiến thức để theo kịp bài học gây nhàm chán và đứt gãy kiến thức trong quá trình học.
“Phong độ” của giảng viên ảnh hưởng khá nhiểu đến quá trình học. VD: GV phải dạy quá nhiều trong một ngày, dạy ban đêm cùng với các tác động bên ngoài khác sẽ khiến chất lượng truyền đạt kiến thức không được như mong muốn.
Chất lượng phương tiện kĩ thuật không đáp ứng đủ yêu cầu học tập. VD: máy chiếu mờ; không có loa hoặc loa nhỏ, chất lượng kém; đường truyền Internet không ổn định, chậm.
c. Giải pháp
Hình thành learning community. Hiểu một cách đơn giản là “bầu không khí PBL”. Đó là khi tất cả mọi giảng viên trong một tập thể hiểu được rằng phương pháp sư phạm của bản thân cần phải thay đổi, thực sự thay đổi.
Phòng học được tối ưu hóa cho việc giảng dạy PBL.
Số lượng sinh viên không quá 30 sv/lớp.
Trần Tuấn Đạt
[1] Trích phát biểu: “by far the biggest challenge for university management is to convince staff to abandon an existing comfortable practice to invest effort in a form of education where a lot of new thinking has to be done (2003),”
[2] Trích phát biểu: “Maybe because of my involvement in the meetings and workshops the School Director suggested that I should have a more important role… My main concern was to be a communication pivot… I would not like my colleagues to consider me as… “is he the one who is going to lead all this?” I was afraid they could reason “if he is the leader, let him tell us what to do”. This was what I thought should never occur. I always thought people should keep on working as they had been, with great commitment and I should see my role… bringing efforts together… my colleagues started to see me as the pivot. From that point on, my role as project coordinator became coherent with the name.”
[3] Có thể trích dữ liệu từ “Khảo sát thông tin người học”.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: